Trịnh Văn Quyền, Nguyễn Thị Ngân Hà, Trịnh Thanh Tùng, Khà Hồng Hạnh
Trường Quản trị và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Ngân Hà
Email: ngth.nganha28@gmail.com
Tóm tắt
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề truyền thống là thách thức lớn đối với sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững. Thông qua dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ việc khảo sát các hộ dân, phỏng vấn chuyên sâu cán bộ địa phương và chủ cơ sở sản xuất, nghiên cứu đã sử dụng mô hình 3S-3C để đánh giá mức độ an ninh môi trường không khí ở Làng gốm Bát Tràng. Kết quả cho thấy, chỉ số an ninh môi trường không khí thông qua việc khảo sát nhóm cư dân ở mức trung bình (3,3/5 điểm), trong khi nhóm chủ cơ sở sản xuất chỉ đạt mức trung bình thấp (2,5/5 điểm). Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất 2 nhóm giải pháp trọng tâm: (1) Tăng cường năng lực quản trị rủi ro môi trường tại cộng đồng; (2) Thúc đẩy ứng dụng công nghệ sản xuất sạch hơn kèm theo quan trắc chất lượng không khí cấp địa phương. Cách tiếp cận và mô hình đánh giá này có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác đảm bảo an ninh môi trường ở các làng nghề khác.
Từ khóa: An ninh môi trường, an ninh phi truyền thống, làng nghề truyền thống, ô nhiễm không khí, phát triển bền vững.
Summary
Environmental pollution in traditional craft villages poses major challenges to public health and sustainable development. Based on research data collected from household surveys, in-depth interviews with local officials, and production facility owners, this study applies the 3S-3C model to assess the level of air environmental security in Bat Trang pottery village. The findings reveal that the air environmental security index, as evaluated by residents, is at a moderate level (3.3/5), while that assessed by production facility owners is only at a lower-moderate level (2.5/5). Accordingly, the study proposes two key groups of solutions: (1) strengthening community capacity in environmental risk management; and (2) promoting the application of cleaner production technologies along with local air quality monitoring. This approach and evaluation model may serve as a reference for ensuring environmental security in other traditional craft villages.
Keywords: Environmental security, non-traditional security, traditional craft village, air pollution, sustainable development
GIỚI THIỆU
Theo Thông tư số 116/2006/TT-BNN, ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề được hiểu là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản… trên địa bàn một xã/phường/thị trấn, nơi diễn ra hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp tạo ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. Bát Tràng được biết đến là một trong những làng gốm sứ truyền thống nổi tiếng nhất của Việt Nam. Trước đây, mỗi ngày làng nghề này tiêu thụ khoảng 800 tấn than và thải ra môi trường nhiều khí độc hại (CO, SO₂, H₂S), cùng bụi silic và chất thải rắn. Những năm gần đây, các hộ sản xuất gốm ở Bát Tràng đã tích cực chuyển đổi công nghệ nung từ lò than, lò gas truyền thống sang lò gas hiện đại. Tính đến nay, gần 1.000 hộ trong làng (hơn 90 %) đã sử dụng lò nung bằng khí hóa lỏng, giúp giảm thiểu phần lớn khí thải so với lò nung than. Việc áp dụng công nghệ nung gas cải tiến không chỉ hạn chế khí thải độc hại, mà còn giúp tiết kiệm năng lượng và giảm chi phí sản xuất khoảng 15 %-30 %, đồng thời giảm đáng kể tỷ lệ sản phẩm hỏng, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của gốm Bát Tràng (Nhân Dân, 2024).
Tuy nhiên, do mô hình sản xuất chủ yếu quy mô hộ gia đình nên việc kiểm soát các nguồn thải trong quá trình sản xuất gốm vẫn chưa được thực hiện chặt chẽ. Hiệu quả thực tế của quá trình chuyển đổi công nghệ đối với chất lượng không khí địa phương đến nay còn gây tranh cãi và chưa được đánh giá khoa học một cách khách quan. Điều đáng chú ý là sản xuất gốm đan xen ngay trong khu dân cư đã làm gia tăng nguy cơ ô nhiễm không khí kéo dài cả ở không gian xưởng sản xuất lẫn khu vực sinh hoạt. Hiện nay, chỉ số chất lượng không khí (AQI) trung bình tại Bát Tràng ở ngưỡng kém (~59); nồng độ bụi mịn PM 2,5 khoảng 45 µg/m³ - cao gấp khoảng 3,4 lần giới hạn khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (AccuWeather, n.d.). Tình trạng này cho thấy đây là một thách thức lớn đối với an ninh môi trường, vốn là một thành tố quan trọng của an ninh quốc gia thuộc lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Theo Nguyễn Hoè và Nguyễn Ngọc Sinh (2017), an ninh môi trường là khả năng của môi trường trong việc đảm bảo các chức năng cơ bản cho con người một cách bền vững, đồng thời đảm bảo các tác động tiêu cực từ môi trường không gây ảnh hưởng lớn đến ổn định chính trị, trật tự xã hội và phát triển kinh tế của quốc gia. Nói cách khác, bảo đảm an ninh môi trường chính là bảo đảm môi trường không bị đe dọa đến mức gây mất ổn định cho xã hội và cuộc sống người dân.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Khung lý thuyết
Nghiên cứu này áp dụng mô hình quản trị an ninh môi trường phi truyền thống 3S-3C làm khung lý thuyết nền tảng (Hoàng Đình Phi và cộng sự, 2019). Cụ thể, mô hình 3S-3C bao gồm ba yếu tố đảm bảo an ninh môi trường: Safety (An toàn) biểu thị mức độ an toàn của chất lượng môi trường (trong nghiên cứu này tập trung vào môi trường không khí); Stability (Ổn định) biểu thị mức độ ổn định của chất lượng môi trường theo thời gian; Sustainability (Bền vững) biểu thị mức độ bền vững, thân thiện môi trường của công nghệ sản xuất. Song song với đó là 3 yếu tố chi phí rủi ro: Chi phí quản trị rủi ro tổng chi phí dành cho quản lý, quan trắc và xử lý môi trường…; Chi phí thiệt hại do khủng hoảng tổng mức thiệt hại do sự cố môi trường gây ra (ảnh hưởng sức khỏe, gián đoạn sản xuất…); Chi phí khắc phục hậu khủng hoảng tổng chi phí phục hồi sau sự cố ô nhiễm. Mức độ an ninh môi trường tổng hợp được xác định bằng phương trình:
S = (S1 + S2 + S3) - (C1 + C2 + C3)
Trong đó: S1, S2, S3 và C1, C2, C3 tương ứng với điểm đánh giá các thành phần nêu trên. Chỉ số S càng cao nghĩa là an ninh môi trường càng được đảm bảo. Ngoài ra, khung phân tích 3S-3C cũng cho phép lượng hóa mức độ an ninh môi trường không khí dưới dạng một chỉ số tổng hợp, làm căn cứ so sánh giữa các nhóm đối tượng khác nhau cũng như so sánh trước và sau khi áp dụng các giải pháp quản lý môi trường.
Bên cạnh đó, nghiên cứu kế thừa các kết quả và số liệu quan trắc môi trường gần đây tại các làng nghề để đánh giá bối cảnh. Chẳng hạn, những phát hiện về ô nhiễm bụi tại làng nghề đã giúp định hướng việc xây dựng bảng hỏi khảo sát, tập trung vào các nguồn phát thải đặc thù (Nguyen, 2020). Tương tự, thông tin từ báo cáo của Bộ Công Thương (2021) về tỷ lệ làng nghề có hệ thống xử lý chất thải thấp đã gợi ý nội dung câu hỏi liên quan đến quản trị rủi ro môi trường. Nhờ vậy, bộ công cụ khảo sát được thiết kế sát với thực tiễn địa phương.
Tổng quan nghiên cứu
Phát triển làng nghề là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Bởi vì làng nghề là nơi thu hút lao động địa phương, tạo việc làm cho người lao động trong xã hội, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mặt trái của sự phát triển làng nghề: phần lớn các làng nghề ở Việt Nam đang bị ô nhiễm nghiêm trọng về nước, chất thải rắn và không khí (Nguyen, 2020). Chẳng hạn, tại các làng nghề Lại Xuân (Hải Phòng), Phong Khê và Văn Môn (Bắc Ninh), Ninh Văn (Ninh Bình), mức bụi lơ lửng ở một số khu vực cao gần gấp đôi giới hạn cho phép. Tại thôn Văn Môn gần Làng nghề đúc nhôm Mẫn Xá, nồng độ bụi mịn PM₂.₅ trung bình hằng năm liên tục vượt ngưỡng cho phép kể từ năm 2020 (moitruong.net.vn, 2024). Tương tự, khu vực lân cận các cụm công nghiệp Phong Khê 2 và Lỗ Xung (Bắc Ninh) cũng thường xuyên ghi nhận nồng độ PM₂.₅ vượt giới hạn an toàn (moitruong.net.vn, 2024). Bên cạnh ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước và chất thải tại các làng nghề cũng đang ở mức báo động. Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy nồng độ các chất như COD, BOD₅, coliform trong nước thải làng nghề thường vượt tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần, có nơi vượt tới hàng nghìn lần (Bộ Công Thương, 2021). Một trong những nguyên nhân chính là do phần lớn các cơ sở sản xuất nhỏ, thiếu vốn và công nghệ xử lý, dẫn đến việc hầu hết nước thải bị xả trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý. Chỉ khoảng 16 % làng nghề có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn và gần 21 % số làng nghề có điểm thu gom chất thải rắn công nghiệp (Vietnam News, 2023). Thực trạng này cho thấy công tác bảo vệ môi trường ở các làng nghề còn nhiều hạn chế, đòi hỏi cách tiếp cận mới nhằm phát triển bền vững.
Trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống, an ninh môi trường ngày càng được quan tâm như một nội dung trọng yếu. Hoàng Đình Phi và cộng sự (2019) đã đề xuất cách tiếp cận quản trị an ninh phi truyền thống thông qua mô hình 3S-3C. Mô hình này tạo khung phân tích toàn diện để đánh giá mức độ an ninh môi trường dựa trên sự cân bằng giữa các yếu tố An toàn (S1), Ổn định (S2), Bền vững (S3) của môi trường với tổng: Chi phí quản trị rủi ro (C1), Chi phí thiệt hại do khủng hoảng (C2) và Chi phí khắc phục hậu khủng hoảng (C3). Đây chính là cơ sở lý thuyết quan trọng để nghiên cứu vấn đề môi trường dưới góc độ an ninh.
Làng gốm Bát Tràng hiện nay có quy mô hành chính mở rộng (diện tích ~20,67 km²; dân số ~48.987 người) sau đợt sáp nhập đơn vị hành chính toàn quốc vào ngày 01/7/2025. Tại đây, phần lớn cơ sở gốm sứ hoạt động đan xen trong khu dân cư, mô hình sản xuất mang tính gia truyền và gắn liền với không gian sinh hoạt (Vietnam News, 2024). Đặc điểm này làm gia tăng mức độ ô nhiễm không khí trong khu vực làng nghề và tiềm ẩn nguy cơ đối với sức khỏe cộng đồng (Nhân dân, 2024). Số liệu quan trắc mới nhất cho thấy chất lượng không khí địa phương thường xuyên ở ngưỡng xấu, đặc biệt nồng độ bụi mịn PM2,5 cao kéo dài. Qua khảo sát thực tế, chúng tôi ghi nhận ý kiến từ cán bộ xã và các chủ cơ sở gốm rằng tình trạng ô nhiễm không khí tại đây rất phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân cũng như uy tín của làng nghề. Những người được phỏng vấn đều nhấn mạnh rằng, sản xuất gốm sứ vẫn là nguồn sinh kế chính của người dân, do đó việc đánh giá an ninh môi trường không khí và đề xuất giải pháp bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết hiện nay. Nghiên cứu này là công trình đầu tiên áp dụng mô hình 3S-3C để đánh giá một cách định lượng và định tính an ninh môi trường không khí cho một làng nghề gốm sứ ở Việt Nam, qua đó bổ sung góc nhìn an ninh phi truyền thống trong phát triển bền vững làng nghề.
Phương pháp nghiên cứu
Khung phân tích và thiết kế nghiên cứu: Dựa trên mô hình 3S-3C, nhóm nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí để đo lường an ninh môi trường không khí tại Bát Tràng. Các tiêu chí này được chuyển hóa thành các câu hỏi cụ thể trong phiếu khảo sát, tương ứng với 6 thành phần của mô hình 3S-3C. Sử dụng thang đo Likert 5 mức độ (1 = Rất thấp/Hoàn toàn không đồng ý, 5 = rất cao/hoàn toàn đồng ý), người trả lời tự đánh giá mức độ bảo đảm an ninh môi trường trên từng khía cạnh. Bảng hỏi được thiết kế thành hai phiên bản phù hợp cho hai nhóm đối tượng (cộng đồng cư dân và chủ cơ sở sản xuất), với cách diễn đạt đơn giản, dễ hiểu. Song song với khảo sát định lượng, nhóm nghiên cứu chuẩn bị đề cương phỏng vấn bán cấu trúc cho nghiên cứu định tính, tập trung vào các vấn đề môi trường nổi cộm tại địa phương, những khó khăn trong quản lý môi trường và đề xuất giải pháp từ góc nhìn của người dân và doanh nghiệp.
Thu thập dữ liệu định lượng và định tính: Khảo sát định lượng được tiến hành trực tiếp tại xã Bát Tràng trong tháng 5/2025. Nhóm nghiên cứu đã thu thập được 50 phiếu khảo sát từ người dân sinh sống và làm việc tại địa phương (đại diện cho cộng đồng cư dân) và 10 phiếu khảo sát từ nhóm chuyên gia gồm cán bộ quản lý môi trường địa phương và chủ cơ sở sản xuất gốm (đại diện cho các cơ sở sản xuất lớn). Mẫu được chọn bằng phương pháp ngẫu nhiên kết hợp có chủ đích, nhằm đảm bảo tính đại diện đồng thời tập trung vào những đối tượng am hiểu tình hình môi trường làng nghề.
Bên cạnh đó, nhóm tác giả đã thực hiện 10 cuộc phỏng vấn sâu với các bên liên quan chính, bao gồm: cán bộ phụ trách môi trường xã Bát Tràng, một số trưởng thôn, chủ cơ sở sản xuất gốm quy mô lớn và người dân lâu năm tại địa phương. Các cuộc phỏng vấn diễn ra trực tiếp, nội dung được ghi âm và ghi chép lại đầy đủ. Nội dung phỏng vấn xoay quanh việc đánh giá chất lượng không khí hiện nay; những thay đổi sau khi chuyển sang lò gas; các biện pháp đã và đang triển khai để giảm thiểu ô nhiễm; khó khăn trong công tác quản lý môi trường; và kiến nghị giải pháp từ góc nhìn của người dân cũng như chủ doanh nghiệp. Dữ liệu định tính thu thập được được phân tích theo phương pháp phân tích chủ đề, sau đó đối chiếu chéo với kết quả khảo sát định lượng nhằm lý giải sâu các vấn đề nổi bật, qua đó nâng cao độ tin cậy và tính toàn diện của kết luận nghiên cứu.
Có thể thấy, cách tiếp cận kết hợp định lượng và định tính này cho phép vừa đo lường được mức độ của các yếu tố an ninh môi trường, vừa khám phá được những khía cạnh đặc thù của Bát Tràng, từ đó đề xuất giải pháp sát với thực tiễn.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thực trạng các nguồn ô nhiễm không khí tại Làng gốm Bát Tràng
Hình 1: Đánh giá của người dân các nguồn gây ô nhiễm không khí tại Làng gốm Bát Tràng
Chú thích: Trục hoành liệt kê các nguồn gây ô nhiễm chính; trục tung biểu thị số người lựa chọn nguồn đó là đáng lo ngại nhất
Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả (2025)
Kết quả khảo sát người dân về các nguồn gây ô nhiễm không khí chính tại làng nghề được thể hiện ở Hình 1 cho thấy: Có 4 nguồn phát thải được đưa ra để người dân đánh giá mức độ ảnh hưởng: (1) quá trình mài, chà nhám sản phẩm gốm (làm mịn sản phẩm thô); (2) đốt rác, đốt bao bì thải; (3) công đoạn in/hấp decal hoa văn lên gốm; và (4) quá trình vận chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm.
Kết quả cho thấy, công đoạn mài, chà nhám sản phẩm gốm được 28/50 người (56 %) lựa chọn là nguồn ô nhiễm không khí đáng lo ngại nhất. Đứng thứ hai là hoạt động đốt rác, đốt bao bì với 27/50 phiếu (54 %), cho thấy tập quán đốt rác thải tại chỗ cũng đóng góp đáng kể vào ô nhiễm không khí. Tiếp theo, công đoạn in/hấp decal trên sản phẩm được 26/50 người (52 %) đánh giá gây ảnh hưởng xấu (do quá trình này sử dụng hóa chất và nhiệt sinh ra mùi, khí thải). Ngược lại, quá trình vận chuyển chỉ có 14/50 phiếu (28 %) cho là đáng lo ngại, được xem là nguồn ô nhiễm ít ảnh hưởng nhất. Kết quả này giúp khoanh vùng những hoạt động ưu tiên cần kiểm soát (như khâu mài sản phẩm và đốt rác) nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí tại Bát Tràng.
Đánh giá của chủ cơ sở sản xuất về môi trường không khí
Hình 2 tổng hợp kết quả khảo sát 10 chủ cơ sở sản xuất gốm về mức độ quan tâm và đầu tư cho môi trường trong hoạt động sản xuất (theo thang điểm 5). Có 4 tiêu chí được đưa ra: (i) Mức đầu tư chi phí vào sản xuất “xanh” (ví dụ: cải tiến lò nung, máy móc giảm ô nhiễm); (ii) Mức độ đảm bảo các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường; (iii) Mức độ an toàn của chất lượng không khí trong xưởng sản xuất; (iv) Mức đầu tư chi phí xử lý ô nhiễm bụi mịn từ quá trình sản xuất.
Hình 2: Đánh giá của các chủ cơ sở sản xuất về công tác bảo vệ môi trường không khí
Chú thích: thang điểm 5
Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả (2025)
Kết quả cho thấy, 2 tiêu chí đạt điểm trung bình cao nhất đều ở mức 3,5/5 điểm: đó là mức đầu tư cho sản xuất sạch hơn và mức độ tuân thủ pháp luật về môi trường. Điều này cho thấy, các chủ lò gốm đã có nhận thức tích cực về yêu cầu bảo vệ môi trường, chủ động thay đổi công nghệ sản xuất (chuyển sang lò gas, đầu tư máy móc giảm ô nhiễm) và chấp hành các quy định về môi trường (như đăng ký cam kết bảo vệ môi trường, thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường nếu cần). Tuy nhiên, tiêu chí “an toàn của chất lượng không khí trong xưởng” được chấm thấp nhất, chỉ 2,0/5 điểm. Nhiều chủ cơ sở thừa nhận rằng, bụi và khí thải sinh ra trong các khâu chế biến nguyên liệu, phun men, nung gốm… vẫn chưa được kiểm soát triệt để; công nhân thường xuyên tiếp xúc với bụi mịn mà chưa có biện pháp bảo vệ hữu hiệu. Bên cạnh đó, mức đầu tư cho xử lý bụi và khí thải chỉ đạt 2,5/5 điểm, phản ánh việc các cơ sở còn hạn chế nguồn lực dành cho xử lý môi trường, một phần có thể do chi phí lắp đặt hệ thống hút lọc bụi hoặc máy xử lý khí thải khá cao so với lợi nhuận kinh doanh gốm.
Chỉ số an ninh môi trường không khí tại Bát Tràng
Dựa trên kết quả khảo sát định lượng, nhóm nghiên cứu đã tính toán chỉ số an ninh môi trường không khí S = 3S - 3C cho 2 nhóm đối tượng (cộng đồng người dân và chủ cơ sở sản xuất).
Bảng: Kết quả đánh giá định lượng an ninh môi trường không khí tại Làng gốm Bát Tràng
TT |
Thành phần |
Nhóm người dân (1 – 5) |
Nhóm chủ cơ sở (1 – 5) |
Giải thích |
1 |
S1: An toàn môi trường |
3,0 |
3,5 |
Biểu thị mức độ không khí sạch hiện tại (5 = rất tốt) |
2 |
S2: Ổn định môi trường |
4,4 |
3,6 |
Tính ổn định, ít dao động của chất lượng không khí |
3 |
S3: Bền vững môi trường |
3,9 |
3,1 |
Mức độ thân thiện môi trường của công nghệ sản xuất |
4 |
C1: Chi phí quản trị rủi ro |
3,7 |
2,9 |
Đầu tư cho quản lý, quan trắc, xử lý môi trường… |
5 |
C2: Chi phí thiệt hại do khủng hoảng |
2,1 |
2,4 |
Thiệt hại do sự cố môi trường gây ra (sức khỏe, sản xuất…) |
6 |
C3: Chi phí khắc phục hậu khủng hoảng |
2,3 |
1,8 |
Chi phí phục hồi sau sự cố ô nhiễm môi trường |
7 |
S: Chỉ số an ninh môi trường |
3,3 |
2,5 |
Tính toán từ công thức S = (S1 + S2 + S3) – (C1 + C2 + C3) |
Kết quả ở Bảng 1 trình bày điểm trung bình các thành phần S1, S2, S3, C1, C2, C3 và chỉ số S tổng hợp của 2 nhóm cho thấy, nhóm người dân đánh giá an ninh môi trường không khí ở mức trung bình (S = 3,3/5), trong khi nhóm chủ cơ sở sản xuất đánh giá ở mức trung bình thấp (S = 2,5/5).
Nhóm người dân: Các điểm thành phần S1, S2, S3 của người dân tương đối cao, đặc biệt S2 = 4,4 và S3 = 3,9. Điều này cho thấy cư dân khá lạc quan về tính ổn định và xu hướng cải thiện chất lượng không khí (có thể do họ nhận thấy không khí đã bớt ô nhiễm hơn sau khi các lò than được thay thế bằng lò gas). Tuy nhiên, S1 = 3,0 phản ánh chất lượng không khí hiện tại chỉ ở mức trung bình, chứng tỏ người dân vẫn còn lo ngại về tình trạng bụi và mùi trong khu vực. Về khía cạnh chi phí, C1 = 3,7 cho thấy người dân đã bỏ ra một mức chi phí nhất định (hoặc sẵn sàng bỏ chi phí) cho các biện pháp bảo vệ sức khỏe trước ô nhiễm không khí, ví dụ như: mua khẩu trang lọc bụi chất lượng cao, máy lọc không khí dùng trong gia đình. Trong khi đó, C2 = 2,1 và C3 = 2,2 đều rất thấp, cho thấy cộng đồng hầu như chưa có sự chuẩn bị cho tình huống khủng hoảng môi trường, như vậy đa số chưa có kế hoạch hay quỹ dự phòng nào để ứng phó và khắc phục nếu xảy ra sự cố ô nhiễm nghiêm trọng.
Nhóm chủ cơ sở sản xuất: Ở nhóm này, S1 = 3,5, cao hơn so với nhóm người dân, hàm ý các chủ cơ sở đánh giá chất lượng không khí hiện tại khá tốt (có thể bởi họ so sánh với trước đây khi dùng lò than, nay chuyển sang lò gas thấy giảm khói bụi rõ rệt ngay tại xưởng). Tuy nhiên, S3 = 3,1 thấp hơn đáng kể so với nhóm người dân, nghĩa là chính các chủ lò hiểu rõ còn nhiều khâu trong quy trình sản xuất chưa “sạch”, công nghệ hiện tại của họ vẫn chưa thật sự thân thiện với môi trường (thể hiện qua việc họ thừa nhận còn bụi mịn, khí thải hóa chất ở một số công đoạn chưa được xử lý hiệu quả). Về chi phí, C2 = 2,4 và C3 = 1,8 cho thấy các cơ sở hầu như chưa có nguồn lực hay kế hoạch dành cho việc ứng phó và khắc phục sự cố. Các chủ lò được phỏng vấn thừa nhận rằng họ không có quỹ dự phòng cho rủi ro môi trường; nếu xảy ra vấn đề lớn (như cháy nổ, phát thải độc hại) thì chủ yếu trông chờ sự hỗ trợ từ chính quyền. Điều này lý giải vì sao chỉ số S tổng hợp của nhóm chủ cơ sở chỉ đạt 2,5 điểm, thuộc mức trung bình thấp, điều này cảnh báo một lỗ hổng đáng kể về năng lực quản trị rủi ro môi trường trong nhóm doanh nghiệp địa phương.
Thảo luận
Có thể thấy, kết quả nghiên cứu đã phác họa một bức tranh tổng quan về an ninh môi trường không khí tại Làng gốm Bát Tràng. Nhìn chung, nhận thức của cả cộng đồng dân cư và các chủ cơ sở sản xuất về vấn đề ô nhiễm không khí đã được nâng cao đáng kể so với trước đây (thể hiện qua điểm S2, S3 tương đối cao). Việc chuyển đổi công nghệ nung gốm từ lò than sang lò gas là một thành công điển hình, giúp giảm thiểu đáng kể lượng khí thải độc hại. Tuy nhiên, khoảng cách giữa nhận thức và hành động vẫn còn lớn. Người dân dù lo lắng về bụi mịn nhưng chưa có tiếng nói đủ mạnh để yêu cầu các cơ sở sản xuất đầu tư hệ thống hút bụi. Các hộ sản xuất dù biết rõ tác hại của ô nhiễm nhưng đa phần vẫn ngại đầu tư thêm chi phí cho xử lý môi trường, một phần vì lợi nhuận nghề gốm không cao, phần khác vì tâm lý chủ quan, chưa thấy các hộ xung quanh làm thì mình cũng chưa vội làm. Thực tế này tương đồng với nhận định của Nguyen (2020) rằng, nhiều làng nghề ở Việt Nam đang ở trạng thái “nhận thức có, hành động không” trong vấn đề môi trường, đòi hỏi sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy và cách tiếp cận trong quản lý làng nghề.
Đáng lưu ý, công tác quản trị rủi ro và khủng hoảng môi trường hầu như chưa được quan tâm đúng mức ở cả hai nhóm đối tượng. Hiện tại, địa phương chưa có kế hoạch cụ thể để ứng phó khi chất lượng không khí vượt ngưỡng nguy hiểm; cũng không có quỹ tài chính dự phòng cho các sự cố môi trường như cháy nổ hóa chất hay ô nhiễm diện rộng. Đây là điểm yếu rất đáng lo ngại, bởi trong bối cảnh an ninh phi truyền thống, một sự cố môi trường lớn có thể dẫn đến bất ổn xã hội (ví dụ: người dân biểu tình, khiếu kiện tập thể vì ô nhiễm). Chỉ số C2 và C3 cực thấp ở cả hai nhóm cho thấy rõ lỗ hổng này: cả cộng đồng lẫn doanh nghiệp đều đang ở thế bị động, thiếu chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Qua nghiên cứu trường hợp làng gốm sứ Bát Tràng, có thể thấy mức độ an ninh môi trường không khí hiện nay còn nhiều hạn chế. Chỉ số an ninh môi trường S đối với người dân là 3,3 (mức trung bình) và đối với chủ cơ sở sản xuất là 2,5 (mức trung bình thấp) trên thang 5, phản ánh tình trạng ô nhiễm không khí đáng báo động do bụi mịn và khí thải từ hoạt động sản xuất gốm. Cộng đồng địa phương tuy đã nhận thức rõ tác hại của ô nhiễm không khí (thể hiện qua mong muốn kiểm soát bụi mịn và ý thức tuân thủ quy định môi trường), nhưng hành động thực tế còn chưa tương xứng. Việc đầu tư cho các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm chưa đáp ứng được mức độ rủi ro: nhiều hộ sản xuất vẫn chưa lắp đặt hệ thống hút lọc bụi, và người dân cũng chưa chủ động giám sát hay kiến nghị mạnh mẽ về môi trường với chính quyền và cơ sở sản xuất.
Mặt khác, chuyển đổi công nghệ sang quy trình sạch hơn tuy là hướng đi đúng đắn nhưng mới đạt được một phần và chưa đủ để giải quyết triệt để ô nhiễm. Việc gần như toàn bộ hộ sản xuất chuyển sang sử dụng lò gas hiện đại là bước tiến lớn, giúp loại bỏ khói than và các khí độc hại trong quá trình nung gốm. Tuy nhiên, các công đoạn khác như: chuẩn bị nguyên liệu, phun men, in decal… vẫn phát sinh nhiều bụi và hóa chất độc hại. Điều này cho thấy công nghệ sản xuất sạch cần được áp dụng một cách đồng bộ ở mọi khâu của quy trình sản xuất, thay vì chỉ tập trung cải tiến lò nung. Bên cạnh đó, công tác quản trị rủi ro môi trường tại Bát Tràng vẫn còn nhiều bất cập. Chính quyền địa phương và các cơ sở sản xuất chưa có kế hoạch ứng phó sự cố ô nhiễm cụ thể; người dân và chủ cơ sở đều thiếu kỹ năng cũng như nguồn lực để xử lý khi xảy ra khủng hoảng môi trường. Sự thiếu chuẩn bị này khiến cộng đồng rơi vào thế bị động và có thể chịu tổn thất nặng nề nếu sự cố lớn xảy ra.
Về mặt khoa học, nghiên cứu đã áp dụng thành công mô hình 3S - 3C để đánh giá an ninh môi trường tại một làng nghề truyền thống. Đây là một đóng góp về phương pháp, khi khung lý thuyết quản trị an ninh phi truyền thống được kiểm chứng trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cũng bổ sung bằng chứng thực nghiệm cho thấy tầm quan trọng của việc lồng ghép yếu tố an ninh môi trường trong quá trình phát triển bền vững làng nghề. Về mặt thực tiễn, những phát hiện của nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học cho chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trong việc hoạch định chính sách bảo vệ môi trường làng nghề. Những bài học từ Bát Tràng có thể giúp định hướng giải pháp cho các làng nghề khác đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm tương tự. Tóm lại, an ninh môi trường không khí ở Bát Tràng hiện chưa được đảm bảo, đòi hỏi cần có những giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ hơn trong thời gian tới để vừa bảo vệ môi trường, vừa duy trì sinh kế và phát triển kinh tế địa phương.
Kiến nghị
Dựa trên những phát hiện và phân tích ở trên, chúng tôi đề xuất 2 nhóm giải pháp trọng tâm nhằm tăng cường an ninh môi trường không khí tại Làng gốm Bát Tràng:
Một là, nâng cao năng lực quản trị rủi ro môi trường ở cấp cộng đồng: Chính quyền xã Bát Tràng, Hà Nội cần chủ trì xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố môi trường cho làng nghề, bao gồm các kịch bản xảy ra trong trường hợp khẩn cấp (ví dụ: cháy nổ hóa chất, ô nhiễm không khí vượt ngưỡng an toàn) và phân công rõ trách nhiệm cho các lực lượng tại chỗ khi xảy ra sự cố. Đồng thời, tổ chức các khóa tập huấn định kỳ cho người dân và chủ cơ sở về kỹ năng ứng phó khi xảy ra tình huống ô nhiễm nghiêm trọng (ví dụ: kỹ năng sơ tán, sử dụng thiết bị bảo hộ đúng cách, sơ cứu khi hít phải khói độc). Cộng đồng nên thành lập các tổ tự quản môi trường ở cấp thôn/xóm, đóng vai trò nòng cốt trong giám sát, nhắc nhở và kịp thời báo cáo các vi phạm.
Hai là, thúc đẩy sản xuất sạch hơn và kiểm soát chặt nguồn phát thải (kèm chính sách hỗ trợ kinh tế): Về phía chính quyền địa phương, cần khuyến khích và tạo điều kiện để các hộ gia đình đầu tư công nghệ sạch nhằm giảm thiểu ô nhiễm. Cụ thể, lắp đặt hệ thống hút và lọc bụi tại khâu mài, chà nhám sản phẩm; sử dụng men gốm và nhiên liệu đốt ít phát thải độc hại; cải tiến quy trình phun men, in decal trong buồng kín có thông khí xử lý; bố trí khu vực sấy, nung tách biệt và kín gió để hạn chế rò rỉ khí thải ra môi trường xung quanh. Cùng với đó, địa phương cần thiết lập trạm quan trắc không khí cố định để theo dõi liên tục các thông số bụi mịn PM2,5, PM10, khí SO₂, NO₂… Dữ liệu quan trắc cần được công khai kịp thời đến người dân, qua bảng điện tử công cộng hoặc ứng dụng di động, nhằm cảnh báo sớm khi ô nhiễm tiệm cận hoặc vượt ngưỡng an toàn để người dân có biện pháp bảo vệ sức khỏe. Về dài hạn, chính quyền thành phố nên cân nhắc điều chỉnh quy hoạch không gian sản xuất và sinh hoạt tại Bát Tràng theo hướng phát triển bền vững với cơ sở hạ tầng xử lý chất thải đồng bộ./.
(*) Lời cảm ơn: Nghiên cứu được tài trợ bởi Trường Quản trị và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội - đề tài mã số HSB/2025/01A.
Tài liệu tham khảo:
1. AccuWeather. (n.d.). Bát Tràng, Hanoi, Vietnam – Air quality index. truy cập từ https://www.accuweather.com/en/vn/bat-trang/429880/air-quality-index/429880.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2006). Thông tư số 116/2006/TT-BNN, ngày 18/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn.
3. Bộ Công Thương (2021). Giải bài toán phát triển làng nghề không gây ô nhiễm môi trường, truy cập từ https://moit.gov.vn/bao-ve-moi-truong/giai-bai-toan-phat-trien-lang-nghe-khong-gay-o-nhiem-moi-truong.html.
4. Hoang Dinh Phi., Nguyen, V. H., Hoang, A. T., & Nguyen, X. H. (2019). Management of nontraditional security: A new approach. International Journal of Engineering, Applied and Management Sciences Paradigms, 54(1), 253-262.
5. Lê, H. (2024, April 20). Gia Lâm hoàn tất sáp nhập hành chính, giữ tên gọi xã Bát Tràng. truy cập từ https://baove.congly.vn/gia-lam-hoan-tat-sap-nhap-hanh-chinh-giu-ten-goi-xa-bat-trang-475967.html.
6. Moitruong.net.vn. (2024). Báo động ô nhiễm tại nông thôn miền Bắc: Mức bụi mịn vượt chuẩn nhiều lần, truy cập từ https://moitruong.net.vn/bao-dong-o-nhiem-tai-nong-thon-mien-bac-muc-bui-min-vuot-chuan-nhieu-lan-80379.html.
7. Nguyen, T. L. (2020). Environmental pollution in Vietnam’s craft villages. E3S Web of Conferences, 175, 06012. https://doi.org/10.1051/e3sconf/202017506012
8. Nguyễn, H., Nguyễn, N. N. (2017). An ninh môi trường. Nxb Khoa học Kỹ thuật.
9. Nhân Dân (2024). Finding new directions for craft villages. truy cập từ https://en.nhandan.vn/finding-new-directions-for-craft-villages-post148959.html.
10. Thương hiệu và Pháp luật (2025). Thúc đẩy làng nghề ở Hà Nội sản xuất sạch hơn từ chương trình khuyến công. truy cập từ https://thuonghieuvaphapluat.vn/ha-noi-thuc-day-lang-nghe-san-xuat-sach-hon-tu-chuong-trinh-khuyen-cong-d72671.html.
11. Vietnam Energy Efficiency Program (VNEEP) (2015). Bát Tràng ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng. truy cập từ https://tietkiemnangluong.com.vn/tin-tuc/kinh-nghiem/t21265.
12. Vietnam News (2023). Tiềm ẩn nhiều nguy cơ sự cố chất thải tại các làng nghề. truy cập từ https://vietnamnet.vn/tiem-an-nhieu-nguy-co-su-co-chat-thai-tai-cac-lang-nghe-2262674.html?utm_source=chatgpt.com
13. Vietnam News (2024). Bat Trang seeks global recognition as Creative Craft City. retrieved from https://vietnamnews.vn/society/1665513/bat-trang-seeks-global-recognition-as-creative-craft-city.html.
Ngày nhận bài: 27/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 18/8/2025; Ngày duyệt đăng: 28/8/2025 |