Đậu Hồng Hạnh
Học viện Ngoại Giao
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích vai trò của kinh tế đối ngoại trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế tại Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Tác giả tập trung vào quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế gắn với công nghiệp, dịch vụ hiện đại; đồng thời nhấn mạnh vào tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, thương mại quốc tế và các hiệp định thương mại tự do đến chuyển dịch cơ cấu ngành. Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại và bền vững.
Từ khóa: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, kinh tế đối ngoại
Summary
This study analyzes the role of foreign economic relations in promoting structural transformation by economic sector in Vietnam from 1986 to the present. The author focuses on the transition from a backward agricultural economy to a modern economy driven by industry and services, emphasizing the impact of foreign direct investment, international trade, and free trade agreements on sectoral structural transformation. Based on this analysis, the study proposes solutions to enhance the effectiveness of foreign economic activities and promote structural transformation toward modernity and sustainability.
Keywords: Economic restructuring, sectoral structure, foreign economic relations
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới năm 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua quá trình tái cơ cấu sâu rộng. Trong đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi nền kinh tế thuần nông, lạc hậu sang nền kinh tế phát triển theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế dưới tác động của kinh tế đối ngoại cũng bộc lộ nhiều thách thức. Điều này đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu có hệ thống vai trò của kinh tế đối ngoại trong chuyển dịch cơ cấu ngành, nhằm nhận diện rõ động lực, hệ quả đi kèm và các yếu tố cần điều chỉnh. Việc làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế đối ngoại và chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ giúp bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn trong hoạch định chính sách phát triển ngành, mà còn góp phần định hướng chiến lược hội nhập hiệu quả và bền vững cho Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Kinh tế đối ngoại
Xét từ góc độ mỗi quốc gia, quan hệ kinh tế giữa một quốc gia với các chủ thể còn lại gọi là quan hệ kinh tế đối ngoại, hay nói cách khác, quan hệ kinh tế đối ngoại là toàn bộ quan hệ kinh tế của một quốc gia nhất định với bên ngoài (Nguyễn Văn Lịch, 2012). Kinh tế đối ngoại là một bộ phận của nền kinh tế mỗi quốc gia, bao gồm nhiều lĩnh vực như thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ,...Mỗi lĩnh vực này lại gồm nhiều nội dung cụ thể.
Cơ cấu kinh tế
Theo quan điểm duy vật biện chứng, cơ cấu kinh tế là thuộc tính của hệ thống kinh tế, biểu thị nội dung, cách thức liên kết, phối hợp giữa các phần cấu thành nên hệ thống kinh tế. Nó phản ánh tính chất và trình độ phát triển của hệ thống kinh tế luôn vận động và phát triển có sự điều khiển của con người (Bùi Tất Thắng, 2006).
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành”.
Theo Ngô Doãn Vịnh (2025), cơ cấu kinh tế của một vùng hay của một quốc gia là tổng thể những mối liên hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế của vùng đó hay quốc gia đó, bao gồm các ngành kinh tế; các thành phần kinh tế; các vùng lãnh thổ kinh tế (Hình 1).
Hình 1: Cơ cấu của nền kinh tế (yếu tố hình thành và hình thức kết cấu)
![]() |
Nguồn: Ngô Doãn Vịnh (2005)
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Theo cách hiểu thông thường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi trạng thái cơ cấu của nền kinh tế từ thời điểm này sang thời điểm khác (Viện Chiến lược phát triển, 2004). Tuy nhiên, khái niệm này chưa phản ánh được bản chất của cơ cấu kinh tế, chưa nêu được mục đích của chuyển dịch gắn với sự điều khiển chủ quan của con người.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn được hiểu là sự thay đổi tỷ lệ thành phần trong cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác nhằm có được sự phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn. Khái niệm này phản ánh được bản chất của nền kinh tế và nêu ra được mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là quá trình tích lũy về lượng, dẫn đến sự biến đổi về chất của cơ cấu kinh tế. Quá trình này diễn ra trên 3 khía cạnh: ngành, thành phần kinh tế, lãnh thổ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp ngành kinh tế được hình thành trên các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành với nhau, phản ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thông thường, ngành kinh tế chia phân chia thành 3 nhóm lớn: Nhóm ngành Nông - lâm - ngư nghiệp, hay còn gọi là khu vực I; Nhóm ngành Công nghiệp - xây dựng, còn gọi là khu vực II; Nhóm ngành Dịch vụ, còn gọi là khu vực III.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả, với số liệu, biểu đồ để chứng minh lập luận; kết hợp với cách tiếp cận biện chứng, phân tích mối quan hệ giữa tác động của kinh tế đối ngoại và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mối quan hệ giữa bối cảnh lịch sử Việt Nam và tình hình kinh tế mỗi giai đoạn. Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ các nguồn chính thống như số liệu từ báo cáo tình hình kinh tế xã hội của Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Vai trò của kinh tế đối ngoại trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành tại Việt Nam từ 1986 đến nay
Giai đoạn 1986-1990
Đây là giai đoạn đầu đổi mới, Việt Nam bắt đầu cải cách, chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Mục tiêu của giai đoạn này nhằm khắc phục khủng hoảng, ổn định kinh tế vĩ mô và từng bước mở cửa hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chưa rõ nét, chưa đủ để thay đổi tỷ trọng của các ngành kinh tế (Hình 2).
Hình 2: Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-1990 (%)
![]() |
Nguồn: Cục Thống kê
Ngành Nông - lâm nghiệp và thủy sản: Việc dỡ bỏ độc quyền ngoại thương và chuyển từ thanh toán bằng đồng Rúp sang USD đã giúp Việt Nam bước đầu hội nhập với kinh tế thế giới, chủ động tìm kiếm thị trường mới cho các mặt hàng như: gạo, thủy sản, may mặc và thủ công mỹ nghệ. Lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo với khối lượng lớn (hơn 1,4 triệu tấn) năm 1989 là tín hiệu cho thấy ngành nông nghiệp bắt đầu chuyển từ tự cung tự cấp sang sản xuất xuất khẩu. Trong giai đoạn này Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng cao nhất với 43,40% (1988) và 37,16% (1990) trong cơ cấu kinh tế.
Ngành Công nghiệp - xây dựng: Mặc dù tỷ trọng trong GDP giảm (24,74% năm 1986 xuống 18,03% năm 1990), chịu tác động từ việc tái cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, nhưng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự hình thành các khu chế xuất, khu công nghiệp đã hỗ trợ cơ sở vật chất và xây dựng mô hình quản lý cho các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Ngành dịch vụ: Kinh tế đối ngoại góp phần thúc đẩy sự phục hồi, phát triển vận tải, du lịch, tài chính và thương mại. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam bắt đầu tăng, các ngân hàng thương mại được hình thành trên cơ sở tách ra từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy dịch vụ có sự gắn liền với hội nhập.
Trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển dịch, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi tích cực. Tuy nhiên, về cơ bản, kinh tế vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp lạc hậu, do nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành.
Giai đoạn 1991-2000
Sau giai đoạn khởi động đổi mới với những bước đi thận trọng trong mở cửa, cải cách thể chế, giai đoạn 1991-2000 đánh dấu bước chuyển sang thời kỳ ổn định vĩ mô và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Kinh tế đối ngoại trong giai đoạn này đặc trưng là sự tăng nhanh của dòng vốn FDI và quá trình Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với các nước lớn, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế. Một trong những bước ngoặt chính trị - kinh tế quan trọng là việc Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995. Điều này tạo điều kiện để Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại (FTA) song phương, mở rộng thị trường và từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu.
Chuyển dịch cơ cấu ngành trong giai đoạn này dù còn chậm nhưng xu hướng chuyển dịch khá rõ, khắc phục dần sự bất hợp lý (nặng nông nghiệp) của giai đoạn trước (Hình 3).
Hình 2: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 1991-2000 (%)
![]() |
Nguồn: Cục Thống kê
Ngành Nông - lâm nghiệp và thủy sản: Tỷ trọng ngành này đến năm 2000 chiếm 22,72% GDP, giảm 16,13 điểm phần trăm so với năm 1991. Tỷ trọng của ngành trong GDP giảm nhưng vẫn đảm bảo an ninh toàn lương thực, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đưa nước ta vào danh sách những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Ngành Công nghiệp - xây dựng: Sự gia tăng của FDI kéo theo sự tăng trưởng của ngành công nghiệp. Ngành Công nghiệp - xây dựng chiếm 31,41% năm 2000, tăng 12,76 điểm phần trăm so với 1991. Trong nội bộ ngành công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh nhờ vào các lĩnh vực có thế mạnh xuất khẩu như: dệt may, lắp ráp điện tử và sản xuất đồ gỗ. Mặc dù trong thời kỳ này, Việt Nam vẫn chủ yếu đảm nhận vai trò lắp ráp, gia công, song đây là bước quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ công nghiệp nặng sang mô hình sản xuất gắn với định hướng thị trường.
Ngành Dịch vụ: Sự phát triển của thương mại quốc tế thúc đẩy nhu cầu dịch vụ hỗ trợ như logistics, vận tải, tài chính, bảo hiểm và viễn thông. Nguồn FDI không chỉ tập trung vào công nghiệp mà chuyển dịch vào các lĩnh vực: nhà hàng, khách sạn, du lịch. Chính điều này đã đưa ngành Dịch vụ từ vị trí thứ hai trong GDP (sau Nông - lâm - ngư nghiệp) với 31,97% năm 1991, vươn lên đứng đầu với 35,36% năm 2000.
Giai đoạn 2001-2010
Đây là thời kỳ đánh dấu bước nhảy vọt của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Nếu 2 thập niên trước là giai đoạn chuẩn bị thể chế và xây nền, thì giai đoạn này là thời điểm Việt Nam đẩy mạnh hội nhập.
Một trong những cột mốc nổi bật nhất là sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 1/2007, sau 11 năm đàm phán. Trước và sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã ký kết hàng loạt FTA song phương và đa phương, như FTA Việt - Mỹ (BTA, 2000), các cam kết trong Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đàm phán nhiều FTA tự do thế hệ mới. Những cam kết quốc tế không chỉ giúp Việt Nam mở rộng cánh cửa thương mại, mà còn đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thúc đẩy cạnh tranh và minh bạch hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Hình 4: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010 (%)
![]() |
Nguồn: Cục Thống kê
Từ Hình 4 có thể thấy, dưới tác động của kinh tế đối ngoại, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra mạnh mẽ và rõ nét, cụ thể:
Ngành Nông - lâm nghiệp và thủy sản: Trong giai đoạn 2001-2010, ngành này có xu hướng giảm mạnh với 21,30% năm 2001 xuống 15,38% năm 2010. Mặc dù tỷ trọng ngành trong cơ cấu kinh tế giảm nhưng một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng như: cá tra, tôm, hạt điều, cà phê và gạo. Sự hội nhập của nông nghiệp vào chuỗi giá trị toàn cầu đã tạo động lực để phát triển vùng nguyên liệu tập trung, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến và nâng cao giá trị gia tăng.
Ngành Công nghiệp - xây dựng: Sự gia tăng mạnh mẽ của vốn FDI vào các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu như: điện tử, dệt may và chế biến thực phẩm đã tạo ra những đột phá về năng suất và giá trị xuất khẩu. Một số tập đoàn lớn như: Intel, Canon, Samsung… đã chọn Việt Nam làm điểm đến trong chuỗi sản xuất toàn cầu, thúc đẩy hình thành các khu công nghiệp: Bắc Ninh, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai... Năm 2010, ngành Công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 33,02%, tăng nhẹ so với 32,92% năm 2001.
Ngành Dịch vụ: Các ngành như tài chính ngân hàng, logistics, công nghệ thông tin, viễn thông phát triển nhanh chóng nhờ sự gia nhập của các doanh nghiệp FDI và quá trình cải cách thể chế. Cùng với đó, thương mại bán lẻ, du lịch quốc tế, dịch vụ giáo dục, y tế tư nhân cũng nhận được nguồn vốn FDI. Năm 2010, tỷ trọng khu vực dịch vụ cao nhất trong 3 khu vực kinh tế (chiếm 40,63%).
Tóm lại, giai đoạn 2001-2010, nhờ thực hiện đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá”, Việt Nam đã chuyển dịch cơ cấu ngành mạnh mẽ, có chiều sâu, hiệu quả với thành công là hiện thực hóa mục tiêu kép “đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi 2000” và “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” (Trần Hữu Thực, 2011).
Giai đoạn 2011 đến nay
Giai đoạn 2011 đến nay là thời kỳ Việt Nam bước vào kỷ nguyên hội nhập sâu rộng, không chỉ ở cấp độ khu vực mà còn trên quy mô toàn cầu với những cam kết kinh tế toàn diện, có tiêu chuẩn cao và ràng buộc pháp lý chặt chẽ. Một trong những dấu ấn của giai đoạn này là việc Việt Nam ký kết và triển khai thực thi hàng loạt FTA thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP, 2018), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA, 2020), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP, 2022) cùng với các hiệp định song phương như Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương Quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA, 2020) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Israel (VIFTA, 2023). Các FTA gắn liền với những cam kết giảm rào cản thuế quan, yêu cầu cải cách thể chế, chuẩn hóa quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chính những điều này tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng gắn kết với chuỗi giá trị toàn cầu:
Ngành Nông - lâm nghiệp và thủy sản: Việc ký kết các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA đã tạo ra cơ hội cho Việt Nam tiếp cận những thị trường khó tính với thuế suất thấp hơn, tiêu chuẩn cao hơn. Với EVFTA, 99,2% dòng thuế sẽ được xóa bỏ sau một lộ trình (với EU tối đa 7 năm, với Việt Nam tối đa là 10 năm), trong đó nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam như cà phê, hạt điều, tiêu, gạo và thủy sản được hưởng ưu đãi thuế ngay lập tức. Do đó, dù tỷ trọng ngành này có xu hướng giảm, nhưng vẫn giữ vai trò là ngành là trụ cột của kinh tế.
Ngành Công nghiệp - xây dựng: Việt Nam vươn lên trở thành nước có chỉ số năng lực cạnh tranh công nghiệp (CIP) ở mức khá cao, là một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp của khu vực và thế giới. Năm 2022, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 47,15 tỷ USD, nhập khẩu khoảng 15,3 tỷ USD, xuất siêu sang EU đạt 31,8 tỷ USD. Nhóm hàng ghi nhận mức tăng trưởng cao và có kim ngạch xuất khẩu lớn sang EU là điện thoại, hàng dệt may, giày dép.
Ngành Thương mại - dịch vụ: Đây là khu vực phát triển mạnh mẽ, giữ tỷ trọng cao và ổn định quanh mức 40% trong cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn này. Một số ngành dịch vụ phát triển mạnh có thể kể đến như: tài chính ngân hàng - bảo hiểm, logistic vận tải quốc tế. Đặc biệt, trong vài năm trở lại đây, nền kinh tế Việt Nam chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Một số sàn thương mại điện tử lớn như: Shopee, Tik Tok shop, Lazada… góp phần thúc đẩy hoạt động mua bán xuyên quốc gia.
Theo Báo cáo của Cục Thống kê - Bộ Tài chính, tăng trưởng GDP quý I/2025 đạt 6,93%, là mức tăng trưởng cao nhất của quý I trong vòng 6 năm qua, với động lực chính là lĩnh vực công nghiệp chế biến - chế tạo và dịch vụ (lần lượt tăng 9,28% và 7,7%), đóng góp 82,2% vào mức tăng trưởng chung. Cùng với đó, nông nghiệp phục hồi khá (tăng 3,74%, cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 7 năm), đóng góp 0,43 điểm % (6,24%) vào mức tăng trưởng chung.
Trong giai đoạn này, Dịch vụ vẫn tiếp tục năm giữ tỷ trọng cao nhất, tiếp theo là Công nghiệp - xây dựng và cuối cùng là Nông, lâm nghiệp và thủy sản. Điều này phản ánh rõ định hướng tập trung phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao để từ đó phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng hiện đại.
Tác động của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
Tác động tích cực
Về kinh tế - xã hội: Giải quyết các vấn đề việc làm và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động từ ngành kinh tế có năng suất lao động thấp sang các ngành kinh tế có năng suất lao động cao. Sự phát triển của khu vực FDI và tư nhân đòi hỏi nguồn nhân lực lớn, tay nghề cao, từ đó thúc đẩy nhu cầu đào tạo và tái đào tạo lao động. Bên cạnh đó, quá trình chuyển dịch còn giúp cải thiện và thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, nâng cao chất lượng sống.
Về an ninh - chính trị: Việc phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ tạo công ăn việc làm cho người dân và đảm bảo an ninh xã hội. Nhờ đó, góp phần quan trọng vào việc duy trì ổn định trật tự xã hội tại các khu vực, đặc biệt là ở các tỉnh, các thành phố lớn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giúp tăng cường hội nhập, củng cố vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam đã và đang tham gia 19 FTA, cũng là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong nhiều tổ chức như WTO, APEC, ASEAN... Nhờ đó Việt Nam xây dựng được nội tại vững vàng và được cộng đồng quốc tế nhìn nhận như một đối tác tin cậy, có trách nhiệm.
Về môi trường: Sự chuyển dịch sang các ngành công nghệ cao, thân thiện môi trường giúp giảm áp lực lên môi trường. FDI và các FTA thế hệ mới yêu cầu doanh nghiệp cam kết phải có hệ thống xử lý chất thải và đánh giá tác động đến môi trường. Hơn nữa, sự chuyển dịch sang kinh tế tri thức, tài chính xanh còn giúp giảm tiêu hao tài nguyên và giảm phát thải so với sản xuất truyền thống. Theo báo cáo của Tổ chức Năng lượng quốc tế (IEA), Việt Nam đã đạt được mục tiêu giảm phát thải CO2 trung bình 2,6% mỗi năm giai đoạn 2015-2020, nhờ vào việc phát triển công nghiệp sạch.
Tác động tiêu cực
Về kinh tế - xã hội: Mặc dù giải quyết được một phần vấn đề lao động, nhưng chuyển dịch cơ cấu ngành cũng không thể tránh khỏi nguy cơ “thất nghiệp cơ cấu”. Theo Cục Thống kê, năm 2023, tỷ lệ lao động trong khu vực I đã giảm còn 26,2%. Tuy nhiên, phần lớn trình độ lao động nước ta còn thấp, chưa được trang bị đầy đủ kỹ năng, chuyên môn để chuyển sang các khu vực II, III. Tình trạng này dẫn đến nguy cơ tăng số lượng lao động phi chính thức, giảm chất lượng nguồn nhân lực trong khu vực chính thức.
Về an ninh - chính trị: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, kéo theo sự gia tăng các nhà máy, xí nghiệp, đồng thời thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, dẫn đến rủi ro an ninh lương thực trong dài hạn. Theo thống kê, tại Việt Nam, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người thuộc loại thấp nhất trên thế giới, chỉ đạt 0,25 ha. Điều này đặt ra nguy cơ về an ninh lương thực trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động.
Ngoài ra, tình trạng di cư đến các vùng đô thị cũng dẫn đến việc gia tăng tệ nạn xã hội, khi dân số đông, quản lý kém, lao động thiếu trình độ, dẫn đến thất nghiệp và các tệ nạn xã hội như trộm cắp, mại dâm, ma túy.
Về môi trường: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp cũng gây ra các vấn đề nghiêm trọng về môi trường. Theo Báo cáo Môi trường Quốc gia 2023 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các khu công nghiệp tại Việt Nam mỗi năm phát sinh khoảng 2,5 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp và hơn 350 triệu m³ nước thải. Tuy nhiên, chỉ khoảng 70% khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, phần còn lại xả thải trực tiếp ra môi trường. Điều này cho thấy chuyển dịch nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ đe dọa tới mục tiêu phát triển bền vững.
GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
Để nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, Việt Nam cần triển khai các giải pháp đồng bộ trên cả 3 trụ cột: Kinh tế, xã hội và môi trường, phù hợp với đặc điểm phát triển đất nước:
Thứ nhất, nhằm giảm bất bình đẳng thu nhập và phân hóa vùng miền, cần đẩy mạnh đầu tư hạ tầng giao thông, logistics và công nghệ thông tin tại các khu vực kém phát triển và có chính sách ưu đãi thu hút FDI vào các ngành có lợi thế địa phương, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao và công nghiệp chế biến.
Thứ hai, để hạn chế tình trạng thất nghiệp cơ cấu, cần cải cách hệ thống đào tạo nghề theo hướng gắn với nhu cầu thị trường lao động. Nhà nước cần thúc đẩy hợp tác công - tư trong đào tạo, hỗ trợ chuyển đổi nghề cho lực lượng lao động nông thôn.
Thứ ba, trước nguy cơ mất an ninh lương thực, cần quy hoạch chặt chẽ việc sử dụng đất, duy trì diện tích đất nông nghiệp thiết yếu và thúc đẩy mô hình nông nghiệp thông minh, tiết kiệm diện tích nhưng có năng suất và giá trị cao.
Thứ tư, nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, cần tăng cường tiêu chuẩn môi trường trong thu hút FDI, thúc đẩy chuyển đổi công nghệ sạch và đầu tư vào năng lượng tái tạo. Đồng thời, cơ chế giám sát và xử phạt vi phạm môi trường cần được thực hiện minh bạch và hiệu quả.
Thứ năm, để giảm áp lực đô thị hóa và những hệ lụy xã hội, cần phát triển các khu đô thị vệ tinh, tích hợp hạ tầng và dịch vụ xã hội cơ bản. Chính sách an sinh cần hướng đến bảo vệ người lao động di cư, tạo điều kiện tiếp cận nhà ở, y tế và giáo dục, từ đó ổn định dân cư và giảm tệ nạn xã hội.
Thứ sáu, Việt Nam cần tiếp tục tái định hướng thu hút FDI vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao và giá trị gia tăng lớn. Trong quá trình đàm phán các FTA thế hệ mới, cần gắn kết chặt chẽ hơn giữa cam kết mở cửa thị trường với yêu cầu chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nội tại và phát triển bền vững.
KẾT LUẬN
Kể từ khi đổi mới năm 1986, kinh tế đối ngoại đã trở thành động lực then chốt trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành dưới tác động của kinh tế đối ngoại cũng bộc lộ không ít thách thức, đòi hỏi Việt Nam cần có những giải pháp toàn diện, đồng bộ và mang tính chiến lược lâu dài, không chỉ khắc phục các mặt trái, mà còn để củng cố nội lực, nâng cao chất lượng tăng trưởng và hướng đến phát triển bền vững.
Một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu trong bối cảnh hiện nay là tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực nội sinh và phát huy hiệu quả kinh tế đối ngoại. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, với định hướng của các chính sách đối ngoại không chỉ thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng hiện đại, mà còn khẳng định vị thế, bản sắc và tầm nhìn phát triển của Việt Nam trong thế kỷ XXI.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Tất Thắng (2006). Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, NXb Khoa học Xã hội, tr.29.
2. Ngô Doãn Vịnh (2005). Bàn về phát triển kinh tế (Nghiên cứu con đường dẫn đến giàu sang), NXb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.222.
4. Nguyễn Văn Lịch (2012). Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam, NXb Chính trị quốc gia Sự thật.
7. Nguyễn Thị Hương (2025). Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam từ 1986 đến nay. https://www.nso.gov.vn/wp-content/uploads/2025/05/Bai-viet-1-Chuyen-dich-co-cau-kinh-te-tu-1986-den-nay-30.4.pdf
5. Trần Hữu Thực (2011). Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam mười năm 2001-2010, NXb Thống kê, tr11.
6. Viện Chiến lược phát triển (2004). Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.29.
Ngày nhận bài: 4/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 7/7/2025; Ngày duyệt đăng: 10/7/2025 |