TS. Nguyễn Đức Dương
Học viện Ngân hàng
TS. Đào Hồng Vân
Trường Đại học Công nghệ Đông Á
Email: Duongnd@hvnh.edu.vn
Tóm tắt
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam thông qua khảo sát thực tiễn và phân tích dữ liệu định lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 6 yếu tố then chốt tác động tích cực đến mức độ áp dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh, bao gồm: Cam kết của lãnh đạo, ứng dụng công nghệ hiện đại, chất lượng nguồn nhân lực, kiến thức và kinh nghiệm quản trị, hiệu quả quản lý logistics và nhận thức của người tiêu dùng về bảo vệ môi trường. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích vai trò của chính sách hỗ trợ từ Nhà nước và năng lực tài chính như những yếu tố bổ trợ hoặc cản trở trong quá trình triển khai.
Từ khóa: Quản trị chuỗi cung ứng, chuỗi cung ứng xanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, Việt Nam
Summary
This study examines the factors influencing the adoption of green supply chain management in small and medium-sized enterprises in Vietnam through empirical surveys and quantitative data analysis. The research findings indicate six key factors that positively affect the level of green supply chain management implementation, including leadership commitment, application of modern technology, quality of human resources, managerial knowledge and experience, logistics management efficiency, and consumer environmental awareness. Based on these findings, the study further analyzes the role of government support policies and financial capacity as either facilitating or hindering factors in the implementation process.
Keywords: Supply chain management, green supply chain, small and medium-sized enterprises, Vietnam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và áp lực từ các tiêu chuẩn môi trường quốc tế ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp (DN) không thể tiếp tục theo đuổi mô hình sản xuất - tiêu dùng truyền thống thiếu bền vững. Đặc biệt, với các DN nhỏ và vừa (DNNVV) ở Việt Nam - vốn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế - việc chuyển đổi sang mô hình quản trị chuỗi cung ứng xanh (GSCM) không chỉ là xu hướng tất yếu, mà còn là yêu cầu sống còn để tồn tại và phát triển bền vững.
Tuy nhiên, trên thực tế, mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh trong khu vực DNNVV gặp phải không ít khó khăn, rào cản về nhận thức, nguồn lực, công nghệ và thể chế. Từ đó, đặt ra câu hỏi cấp thiết: Những yếu tố nào đang ảnh hưởng đến việc triển khai quản trị chuỗi cung ứng xanh tại các DNNVV Việt Nam? Làm thế nào để thúc đẩy quá trình này một cách hiệu quả? Đây cũng chính là những vấn đề mà nghiên cứu sẽ phân tích, đánh giá để đưa ra những câu trả lời thỏa đáng.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Quản trị chuỗi cung ứng xanh
Quản trị chuỗi cung ứng xanh là một mô hình quản trị tích hợp các yếu tố môi trường vào toàn bộ chuỗi cung ứng, từ khâu thiết kế sản phẩm, lựa chọn nhà cung cấp, sản xuất, vận chuyển, đến tiêu dùng và xử lý sau tiêu dùng. Theo Srivastava (2007), quản trị chuỗi cung ứng xanh không chỉ nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường mà còn hướng đến tối ưu hóa hiệu quả kinh tế thông qua các hoạt động sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng và tái sử dụng tài nguyên.
Khác với chuỗi cung ứng truyền thống vốn tập trung vào chi phí, tốc độ và chất lượng, quản trị chuỗi cung ứng xanh mở rộng mục tiêu sang khía cạnh bền vững, gắn trách nhiệm môi trường vào từng mắt xích trong chuỗi. Các hoạt động chủ đạo trong quản trị quản trị chuỗi cung ứng xanh bao gồm: Mua sắm xanh, thiết kế sản phẩm thân thiện môi trường, sản xuất sạch, phân phối xanh và tái chế/phục hồi. Lý thuyết nguồn lực và lý thuyết thể chế thường được sử dụng để giải thích động lực triển khai quản trị chuỗi cung ứng xanh trong DN. Lý thuyết nguồn lực nhấn mạnh vai trò của nguồn lực nội tại như năng lực công nghệ, nhân sự, quản trị. Trong khi đó, lý thuyết thể chế tập trung vào áp lực từ thị trường, chính sách và xã hội buộc DN phải “xanh hóa” chuỗi cung ứng.
Như vậy, quản trị chuỗi cung ứng xanh không chỉ là một giải pháp kỹ thuật, mà còn là chiến lược phát triển bền vững, đặc biệt quan trọng đối với các DN trong bối cảnh hội nhập quốc tế và yêu cầu ngày càng cao về trách nhiệm xã hội và môi trường.
Mô hình quản trị chuỗi cung ứng xanh
Mô hình quản trị chuỗi cung ứng xanh là hệ thống tích hợp các hoạt động của chuỗi cung ứng với các tiêu chí và mục tiêu môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong toàn bộ vòng đời sản phẩm. Theo Zhu và Sarkis (2004), mô hình quản trị chuỗi cung ứng xanh bao gồm các thành phần chính: (i) Mua sắm xanh; (ii) Thiết kế sản phẩm thân thiện môi trường; (iii) Sản xuất xanh; (iv) phân phối và logistics xanh; (v) Thu hồi, tái chế sau tiêu dùng. Từng thành phần trong mô hình đều mang tính liên kết chặt chẽ và có vai trò riêng biệt trong việc giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Ví dụ, mua sắm xanh giúp lựa chọn nhà cung cấp có trách nhiệm môi trường; thiết kế xanh làm giảm phát sinh chất thải từ đầu vào; trong khi logistics xanh tập trung vào việc tối ưu hóa tuyến vận chuyển, giảm lượng khí thải carbon. Mô hình quản trị chuỗi cung ứng xanh cũng thường tích hợp với các tiêu chuẩn như ISO 14001, tiêu chuẩn sản phẩm xanh hoặc các tiêu chí Môi trường - Xã hội - Quản trị (ESG) trong quản trị DN.
Các yếu tố như cam kết của lãnh đạo, năng lực công nghệ, áp lực từ khách hàng và chính sách nhà nước được coi là những biến tác động quan trọng đến mức độ triển khai hiệu quả của mô hình. Việc áp dụng thành công mô hình này không chỉ giúp DN giảm chi phí, nâng cao uy tín thương hiệu, mà còn góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển bền vững quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng làm chủ đạo, kết hợp với nghiên cứu định tính hỗ trợ, nhằm xác định và kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh tại các DNNVV ở Việt Nam. Trước hết, phương pháp định tính được sử dụng thông qua phỏng vấn chuyên gia và phân tích tài liệu để hoàn thiện mô hình nghiên cứu, điều chỉnh bộ thang đo cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
Tiếp theo, nghiên cứu tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi có cấu trúc, được thiết kế dựa trên các nghiên cứu trước và lý thuyết nền tảng, sử dụng thang đo Likert 5 mức để đo lường các biến quan sát.
Dữ liệu được thu thập từ các DNNVV hoạt động trong các lĩnh vực có chuỗi cung ứng rõ nét như: sản xuất, chế biến thực phẩm, dệt may, logistics… tại một số khu vực tiêu biểu như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương.
Kích thước mẫu dự kiến từ 200 - 300 DN, đảm bảo yêu cầu tối thiểu cho phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy tuyến tính và/hoặc mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. Sau khi mã hóa và làm sạch dữ liệu, nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS và/hoặc AMOS để xử lý thống kê. Các bước phân tích bao gồm: (i) Kiểm định độ tin cậy của thang đo bằng Cronbach’s Alpha; (ii) Phân tích nhân tố khám phá EFA để kiểm tra cấu trúc thang đo; (iii) Phân tích hồi quy tuyến tính hoặc SEM để kiểm định các giả thuyết và đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố độc lập đến biến phụ thuộc là mức độ ứng dụng quản trị GSCM.
Phương pháp nghiên cứu này nhằm đảm bảo tính khách quan, độ tin cậy và khả năng khái quát hóa cao cho kết quả nghiên cứu, từ đó đưa ra các hàm ý thực tiễn cho DN và cơ quan hoạch định chính sách.
Mô hình nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và tổng quan các công trình trước (Zhu và Sarkis, 2004; Srivastava, 2007; Testa và Iraldo, 2010), mô hình nghiên cứu đề xuất gồm 6 nhân tố độc lập được giả định là có ảnh hưởng đến mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh tại các DNNVV. Các nhân tố này bao gồm: (1) Cam kết của lãnh đạo; (2) Ứng dụng công nghệ xanh; (3) Chất lượng nguồn nhân lực; (4) Kinh nghiệm và hiểu biết về quản trị chuỗi cung ứng xanh; (5) Năng lực quản trị logistics; (6) Áp lực từ người tiêu dùng. Biến phụ thuộc là: Mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh.
Các giả thuyết nghiên cứu
Từ mô hình trên, các giả thuyết nghiên cứu được xây dựng như sau:
H1: Cam kết của lãnh đạo có ảnh hưởng tích cực đến mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh.
H2: Ứng dụng công nghệ xanh có ảnh hưởng tích cực đến mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh.
H3: Chất lượng nguồn nhân lực có ảnh hưởng tích cực đến mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh.
H4: Kiến thức và kinh nghiệm về quản trị chuỗi cung ứng xanh có ảnh hưởng tích cực đến mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh.
H5: Năng lực quản trị logistics có ảnh hưởng tích cực đến mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh.
H6: Áp lực từ người tiêu dùng có ảnh hưởng tích cực đến mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh.
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
Kiểm định các chỉ số phù hợp của mô hình PLS-SEM
Để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình nghiên cứu sử dụng phương pháp PLS-SEM, nghiên cứu đã tiến hành kiểm định đồng thời mô hình đo lường và mô hình cấu trúc dựa trên các chỉ số đánh giá phổ biến trong SEM.
Độ tin cậy và giá trị hội tụ của thang đo
Hệ số Cronbach’s Alpha và Composite Reliability (CR) của các biến tiềm ẩn đều vượt ngưỡng 0,7, chứng tỏ thang đo có độ tin cậy cao. Average Variance Extracted (AVE) của tất cả các nhân tố đều lớn hơn 0,5, cho thấy thang đo đạt giá trị hội tụ tốt.
Bảng 1: Giá trị AVE của các thang đo
Nhân tố |
Cronbach’s Alpha |
Composite Reliability |
AVE |
---|---|---|---|
Cam kết lãnh đạo |
0,842 |
0,888 |
0,651 |
Công nghệ xanh |
0,814 |
0,867 |
0,620 |
Chất lượng nhân lực |
0,790 |
0,854 |
0,597 |
Ứng dụng GSCM (phụ thuộc) |
0,860 |
0,902 |
0,690 |
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
Giá trị phân biệt
Sử dụng tiêu chí Fornell-Larcker và HTMT (Heterotrait -Monotrait Ratio): Mô hình đạt giá trị phân biệt nếu căn bậc hai của AVE từng nhân tố lớn hơn hệ số tương quan với các nhân tố khác. Tất cả các chỉ số HTMT đều nhỏ hơn 0,85, đảm bảo các khái niệm đo lường là phân biệt với nhau.
Đánh giá mô hình cấu trúc
Hệ số R² của biến phụ thuộc (ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh) đạt 0,482, cho thấy các nhân tố độc lập giải thích khoảng 48,2% biến thiên của mức độ áp dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh. Hệ số Q² (Stone-Geisser) > 0 ở tất cả các khối cấu trúc, chứng tỏ mô hình có năng lực dự báo. Kiểm định độ lệch chuẩn hóa (SRMR) = 0,062
Kiểm định giả thuyết bằng mô hình PLS-SEM
Sau khi đánh giá độ phù hợp của mô hình đo lường, nghiên cứu tiếp tục kiểm định các giả thuyết nghiên cứu thông qua mô hình cấu trúc sử dụng phương pháp PLS-SEM với phần mềm SmartPLS.
Kết quả cho thấy, tất cả các giả thuyết đều được chấp nhận với hệ số đường dẫn (path coefficient) mang ý nghĩa thống kê ở mức p
Cụ thể, cam kết của lãnh đạo có ảnh hưởng mạnh nhất đến mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh với hệ số β = 0,32 (p
Giá trị R² của biến phụ thuộc (ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh) đạt 0,482, cho thấy mô hình có khả năng giải thích 48,2% sự biến thiên trong hành vi ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh của các DN được khảo sát. Kết quả phân tích cũng không cho thấy hiện tượng đa cộng tuyến hay độ lệch lớn giữa mô hình và dữ liệu thực nghiệm.
Như vậy, mô hình PLS-SEM không chỉ xác nhận sự tồn tại của mối quan hệ có ý nghĩa giữa các nhân tố độc lập và biến phụ thuộc, mà còn chỉ ra mức độ tác động cụ thể của từng nhân tố, cung cấp cơ sở thực tiễn quan trọng cho các DNNVV trong quá trình triển khai chiến lược chuỗi cung ứng xanh một cách hiệu quả và bền vững.
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG XANH TẠI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM
Để thúc đẩy việc ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh trong các DNNVV tại Việt Nam, thì cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trên cả phương diện nội tại DN lẫn hỗ trợ từ môi trường chính sách bên ngoài.
Thứ nhất, DN cần tăng cường cam kết và vai trò dẫn dắt của đội ngũ lãnh đạo trong việc định hướng và triển khai các hoạt động quản trị chuỗi cung ứng xanh. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc tích hợp các mục tiêu phát triển bền vững vào chiến lược kinh doanh tổng thể, gắn trách nhiệm môi trường với đánh giá hiệu quả quản trị, đồng thời thiết lập các bộ phận chuyên trách về chuỗi cung ứng xanh trong nội bộ tổ chức. Việc lãnh đạo thể hiện cam kết rõ ràng sẽ tạo động lực lan tỏa văn hóa “xanh” trong toàn bộ DN.
Thứ hai, đầu tư và đổi mới công nghệ là yếu tố then chốt để chuyển đổi mô hình chuỗi cung ứng truyền thống sang chuỗi cung ứng thân thiện môi trường. DN nên ưu tiên áp dụng các công nghệ sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng, hệ thống logistics thông minh và kiểm soát phát thải.
Đồng thời, cần tăng cường hợp tác với các trung tâm chuyển giao công nghệ, startup xanh và tổ chức nghiên cứu để tiếp cận các giải pháp phù hợp với đặc thù quy mô và năng lực tài chính của DNNVV.
Thứ ba, các DN cần xây dựng kế hoạch đào tạo bài bản về kỹ năng kỹ thuật và quản trị bền vững cho cán bộ nhân viên, đặc biệt là trong các lĩnh vực như quản trị logistics, đánh giá vòng đời sản phẩm (LCA) và tiêu chuẩn môi trường. Việc hợp tác với các viện đào tạo, trường đại học và tổ chức quốc tế sẽ giúp nâng cao chất lượng nhân lực, tạo tiền đề để quản trị chuỗi cung ứng xanh được triển khai một cách hệ thống và hiệu quả.
Thứ tư, DN cũng cần tái cấu trúc hoạt động logistics và quản trị chuỗi cung ứng theo hướng xanh hóa. Điều này bao gồm việc tối ưu hóa tuyến vận chuyển, sử dụng phương tiện tiết kiệm nhiên liệu, quản lý kho thông minh và lựa chọn nhà cung cấp có trách nhiệm môi trường. Các công cụ đánh giá tác động môi trường, tiêu chuẩn ISO hoặc dán nhãn xanh nên được áp dụng để tạo ra chuỗi cung ứng minh bạch, thân thiện và có khả năng thích ứng với yêu cầu của các thị trường khó tính.
Thứ năm, nâng cao nhận thức của thị trường và kết nối hệ sinh thái tiêu dùng xanh. DN cần đẩy mạnh truyền thông nội bộ và đối ngoại về những nỗ lực xanh hóa để gia tăng giá trị thương hiệu, tạo sự đồng thuận từ nhân viên và sự ủng hộ từ người tiêu dùng.
Việc tham gia vào các liên minh DN xanh, mạng lưới Môi trường - Xã hội - Quản trị (ESG) hoặc chương trình chứng nhận quốc tế sẽ giúp DN tăng cường năng lực cạnh tranh và học hỏi kinh nghiệm triển khai từ các mô hình thành công.
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Kết luận
Nghiên cứu đã làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các nhân tố nội tại và bên ngoài với mức độ ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh trong các DNNVV tại Việt Nam. Thông qua phương pháp PLS-SEM, 6 yếu tố được xác định có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê đối với việc triển khai quản trị chuỗi cung ứng xanh, bao gồm: (i) Cam kết của lãnh đạo; (ii) Ứng dụng công nghệ xanh; (iii) Chất lượng nguồn nhân lực; (iv) Kiến thức và kinh nghiệm về quản trị chuỗi cung ứng xanh; (v) Năng lực quản trị logistics; (vi) Áp lực từ người tiêu dùng.
Trong đó, cam kết lãnh đạo và công nghệ xanh là 2 yếu tố có tác động mạnh nhất. Mô hình nghiên cứu có độ phù hợp cao với dữ liệu thực nghiệm, với giá trị R² đạt 0,482, phản ánh khả năng giải thích đáng kể cho hành vi ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng xanh tại các DNNVV. Kết quả này không chỉ góp phần bổ sung vào cơ sở lý luận về quản trị chuỗi cung ứng xanh, mà còn tạo nền tảng cho các đề xuất mang tính thực tiễn và chính sách phù hợp với bối cảnh DN Việt Nam hiện nay.
Hàm ý chính sách
Đối với doanh nghiệp
Kết quả nghiên cứu gợi mở rằng để triển khai quản trị chuỗi cung ứng xanh hiệu quả, trước hết cần có sự cam kết thực chất từ lãnh đạo DN trong việc thay đổi tư duy quản trị theo hướng bền vững.
Bên cạnh đó, cần chủ động đầu tư công nghệ thân thiện môi trường, xây dựng đội ngũ nhân lực có hiểu biết và kỹ năng về logistics xanh; đồng thời tích cực học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm về quản trị chuỗi cung ứng xanh với các đối tác trong và ngoài nước. DN cũng nên coi áp lực từ khách hàng và xã hội là động lực để tái cấu trúc chuỗi cung ứng theo hướng thân thiện với môi trường và gia tăng giá trị thương hiệu.
Đối với Nhà nước
Các cấp có thẩm quyền cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách theo hướng khuyến khích các DNNVV chuyển đổi sang chuỗi cung ứng xanh, bao gồm hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế, tiếp cận công nghệ và đào tạo nhân lực.
Đồng thời, cần thúc đẩy các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng và người tiêu dùng về tiêu dùng xanh, tạo môi trường thị trường thuận lợi cho các DN thực hành quản trị chuỗi cung ứng xanh.
Việc kết nối các DNNVV với mạng lưới chuyên gia, tổ chức quốc tế và các dự án phát triển bền vững cũng là một trong những định hướng cần thiết nhằm thúc đẩy quản trị chuỗi cung ứng xanh trở thành một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển dài hạn của DN Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Hair, J. F., Hult, G. T. M., Ringle, C. M., và Sarstedt, M (2021). A primer on partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM) (3rd ed.). SAGE Publications.
2. El Baz, J., & Ruel, S (2021). Can supply chain risk management practices mitigate the disruption impacts on supply chains’ resilience and robustness? Evidence from an empirical survey in a COVID-19 outbreak era. International Journal of Production Economics, 233, 107972. https://doi.org/10.1016/j.ijpe.2020.107972
3. Phạm, V. H., và Trần, T M (2017). Quản trị chuỗi cung ứng xanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 55(6A), 112-118.
4. Srivastava, S. K (2007). Green supply‐chain management: A state‐of‐the‐art literature review. International Journal of Management Reviews, 9(1), 53-80. https://doi.org/10.1111/j.1468-2370.2007.00202.x
5. Testa, F., và Iraldo, F (2010). Shadows and lights of GSCM (Green Supply Chain Management): Determinants and effects of these practices based on a multi-national study. Journal of Cleaner Production, 18(10-11), 953-962. https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2010.02.005
6. Zhu, Q., & Sarkis, J (2004). Relationships between operational practices and performance among early adopters of green supply chain management practices in Chinese manufacturing enterprises. Journal of Operations Management, 22(3), 265-289. https://doi.org/10.1016/j.jom.2004.01.005
Ngày nhận bài: 25/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 30/6/2025; Ngày duyệt đăng: 4/7/2025 |