Liên kết vùng trong phát triển kinh tế: Thực trạng và giải pháp

Nghiên cứu phân tích thực trạng liên kết vùng trong phát triển kinh tế tại Việt Nam, chỉ ra những thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, đồng thời làm rõ các tồn tại, hạn chế, nhất là từ góc độ thể chế, từ đó đề xuất một số nhóm giải pháp thúc đẩy liên kết vùng.

Th.S Nguyễn Thị Ngọc Anh

Khoa Lý luận chính trị pháp luật - Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Email: anhntn6@haui.edu.vn

Tóm tắt

Liên kết vùng là giải pháp quan trọng nhằm khắc phục tình trạng phát triển cục bộ theo vùng, tận dụng tối đa thế mạnh đặc thù và quy mô kinh tế của mỗi vùng để phát huy lợi thế so sánh, tối ưu hóa nguồn lực và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Nghiên cứu phân tích thực trạng liên kết vùng trong phát triển kinh tế tại Việt Nam, chỉ ra những thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, đồng thời làm rõ các tồn tại, hạn chế, nhất là từ góc độ thể chế. Trên cơ sở đó, đề xuất một số nhóm giải pháp thúc đẩy liên kết vùng, tạo không gian phát triển mới gắn kết và bền vững cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

Từ khóa: Liên kết vùng, phát triển kinh tế, phát triển hạ tầng, tăng trưởng bền vững

Summary

Regional linkage is a key solution to overcoming uncoordinated regional development, maximizing each region's unique strengths and economies of scale to enhance comparative advantages, optimize resource allocation, and promote sustainable economic development. The study analyzes the current state of regional linkages in Viet Nam’s economic development, highlighting notable achievements in economic growth while identifying challenges and limitations, particularly from an institutional perspective. Based on these findings, the author proposes policy implications aimed at strengthening regional coordination and integration, thereby creating a more cohesive and sustainable development space for Viet Nam in the context of global integration.

Keywords: Regional linkage, economic development, infrastructure development, sustainable growth

GIỚI THIỆU

Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế nhanh chóng và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong bối cảnh đó, việc tối ưu hóa nguồn lực và phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương trở thành yêu cầu cấp thiết để duy trì tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Liên kết vùng với bản chất là sự kết hợp để tạo động lực mới trong phát triển kinh tế - xã hội và thương mại trên phạm vi rộng, được xem là một phương thức phát triển tất yếu (Phạm Thị Túy, 2023). Mục tiêu của liên kết vùng là khai phóng các nguồn lực tiềm năng, mở ra động lực và không gian phát triển mới cho toàn vùng, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.

Đến nay, mặc dù nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đảng và Nhà nước, nhưng thực trạng liên kết vùng tại Việt Nam vẫn còn mang tính hình thức và tồn tại một số hạn chế, điển hình như khoảng cách giữa chủ trương chính sách và hiệu quả thực thi còn lớn. Do đó, việc phân tích thực trạng phát triển, tìm ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế sẽ là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp toàn diện nhằm hoàn thiện thể chế và thúc đẩy liên kết vùng hiệu quả, góp phần vào sự phát triển bền vững và thịnh vượng chung của đất nước.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Khái niệm

Liên kết vùng trong phát triển kinh tế được hiểu là một phương thức phát triển kinh tế - xã hội dựa trên việc phát huy lợi thế so sánh, tạo lợi thế cạnh tranh và động lực phát triển cho vùng thông qua kết nối không gian kinh tế - tự nhiên, kinh tế - xã hội (Phạm Thị Túy, 2023). Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, liên kết vùng là sự hợp tác và chia sẻ thông tin, nguồn lực, hoạt động và năng lực giữa các tổ chức trong một vùng để đạt được những kết quả chung mà không một tổ chức hay địa phương đơn lẻ nào có thể đạt được (Nguyễn Thị Mai và cộng sự, 2022). Điều này hàm ý rằng, liên kết vùng không chỉ đơn thuần là việc tối ưu hóa nguồn lực và lợi thế hiện có, mà còn hướng tới tạo ra những giá trị gia tăng mới, những không gian phát triển chưa từng có thông qua sức mạnh tổng hợp.

Các chủ thể tham gia liên kết vùng

Các chủ thể tham gia liên kết vùng tại Việt Nam được chia thành 2 nhóm chính: (1) Các cơ quan quản lý nhà nước gồm: cơ quan ở Trung ương như các bộ, ngành và các cơ quan ở địa phương (cấp tỉnh); (2) Các chủ thể ngoài nhà nước, gồm: doanh nghiệp, hiệp hội, viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo và hộ gia đình. Trong đó, các cơ quan quản lý nhà nước đóng vai trò then chốt, là chủ thể chính trong xây dựng các quy định pháp luật về phát triển vùng ở tầm vĩ mô. Chính quyền địa phương có nhiệm vụ thể chế hóa, xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vi mô, tạo cơ sở cho hoạt động của chính quyền cấp thấp hơn và có tác động đến các quan hệ chủ thể trong nền kinh tế. Như vậy, trong nhiều trường hợp, các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương trở thành chủ thể trung gian, kiến tạo mối liên kết giữa các chủ thể trong nền kinh tế (Lê Phương Nam, 2022).

THỰC TRẠNG LIÊN KẾT VÙNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM

Thành tựu và kết quả đạt được

Trong những năm qua, liên kết vùng tại Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận, chủ yếu nhờ sự quan tâm sát sao của Đảng và Nhà nước, thể hiện qua việc ban hành các văn bản chỉ đạo điều hành. Các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển 6 vùng kinh tế - xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cùng với việc thành lập Hội đồng điều phối vùng, cho thấy quyết tâm chính trị cao nhằm hiện thực hóa định hướng phát triển vùng. Sau khi các Nghị quyết phát triển vùng được ban hành, nhiều hội nghị quán triệt và triển khai được tổ chức, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan và cá nhân, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy thực hiện.

Đặc biệt, các vùng kinh tế trọng điểm đã có những đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm (GDP) cả nước; cụ thể, trong năm 2022, 4 vùng kinh tế trọng điểm đã đóng góp gần 75% vào GDP, trong khi 39 tỉnh, thành còn lại chỉ đóng góp khoảng 25,12%. Kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng khá, là điểm nhấn trong khu vực Đông Nam Á và châu Á. Số liệu thống kê cho thấy, năm 2024, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành ước đạt 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023; quy mô GDP theo giá hiện hành ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ USD. Thu nhập bình quân 1 người/tháng năm 2024 theo giá hiện hành đạt 5,4 triệu đồng, tăng 9,1% so với năm 2023, cao hơn tốc độ tăng thu nhập của năm 2023 so với năm 2022 (6,2%); trong đó, Đông Nam Bộ là vùng có thu nhập bình quân 1 người/tháng cao nhất ở mức gần 7,1 triệu đồng. Trong năm 2024, tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành ước đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm trước; trong đó, vốn khu vực Nhà nước đạt 1.019,3 nghìn tỷ đồng, tăng 5,3%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 2.064,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 608,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,6%.

Các vùng kinh tế trọng điểm đã có đóng góp lớn vào tổng thu ngân sách nhà nước. Đồng bằng sông Hồng là vùng kinh tế có đóng góp cao nhất năm 2024, đạt trên 882,65 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 43,4% tổng thu ngân sách cả nước, tăng 22% so với dự toán Thủ tướng Chính phủ giao. Trong khi đó, quy mô GRDP theo giá hiện hành vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt khoảng 1.409 nghìn tỷ đồng, tăng 11,9% so với năm 2023 và chiếm 12,2% cả nước.

Bên cạnh đóng góp vào ngân sách, liên kết vùng còn thúc đẩy phát triển hạ tầng đồng bộ cả trong và liên vùng, khuyến khích các địa phương cùng chia sẻ kinh nghiệm quản lý, đồng thời giải quyết các mâu thuẫn một cách hài hòa. Từ đó, các địa phương đã hợp tác đề xuất các chính sách và dự án chung, thu hút các thực thể kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp, tham gia vào các hội nghị xúc tiến đầu tư và thương mại cấp vùng.

Mặt khác, liên kết vùng luôn là một trong những giải pháp được nhiều địa phương lựa chọn để thúc đẩy phát triển kinh tế, đẩy mạnh chuỗi giá trị và xúc tiến thương mại. Ví dụ như phát triển du lịch, không chỉ đa dạng hóa hệ thống sản phẩm mà còn mở ra nhiều cơ hội kết nối thị trường và các cơ chế thúc đẩy sự phát triển kinh tế vùng. Việc xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm liên kết vùng cũng đem lại những thành công bước đầu.

Thách thức và hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được, liên kết vùng trong phát triển kinh tế tại Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều hạn chế và thách thức đáng kể.

Mặc dù đã có sự quan tâm lớn từ Đảng và Nhà nước, trên thực tế, liên kết vùng tại Việt Nam chưa thực sự chặt chẽ và còn mang nặng tính hình thức. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thực trạng này là do thể chế kinh tế vùng còn chưa hoàn thiện. Tính chất "yếu và hình thức" kéo dài, bất chấp sự quan tâm ở cấp cao, cho thấy các vấn đề tiềm ẩn có thể bắt nguồn từ sự trì trệ thể chế, xung đột lợi ích cục bộ hoặc thiếu các cơ chế trách nhiệm rõ ràng. Điều này chỉ ra rằng, cần có thêm chỉ đạo và đánh giá lại cơ bản hơn về cấu trúc quản trị và hệ thống khuyến khích để chuyển từ ý định chính sách sang thực hiện hiệu quả.

Chất lượng quy hoạch và đầu tư hạ tầng chưa đồng bộ, chưa gắn liền với nguồn lực thực hiện, dẫn đến các kế hoạch liên kết khó đi vào thực tiễn. Hệ thống hạ tầng giao thông, đặc biệt là các tuyến đường kết nối giữa các địa phương và các tuyến liên kết nội vùng, chưa được đầu tư đồng bộ và liên thông, chưa tạo thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa và kết nối kinh tế. Đặc biệt, cơ chế thực thi chính sách liên kết vùng chưa phát huy được hiệu lực và hiệu quả cao nhất, dẫn đến các hoạt động liên kết thường mang tính tự phát, thiếu bền vững. Bên cạnh đó, các thách thức kinh tế vĩ mô và hội nhập quốc tế cũng ảnh hưởng đến quá trình và chất lượng liên kết vùng như: nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, hạn chế trong ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số, phụ thuộc vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nợ công và thâm hụt ngân sách nhà nước cao kéo dài làm hạn chế đáng kể khả năng cung ứng vốn từ ngân sách cho đầu tư phát triển các dự án liên vùng.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VÀ THÚC ĐẨY LIÊN KẾT VÙNG HIỆU QUẢ

Để khắc phục những hạn chế và phát huy tối đa tiềm năng của liên kết vùng, cần triển khai đồng bộ các giải pháp toàn diện.

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và chính sách. Việc hoàn thiện khung khổ thể chế là yếu tố quan trọng để hiện thực hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong đó, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 21/4/2022 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế - xã hội là một bước đi quan trọng. Nghị quyết này yêu cầu các bộ, ngành, địa phương chủ động phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế so sánh, đổi mới, sáng tạo và tăng cường liên kết vùng. Mục tiêu nhằm tăng cường vai trò điều phối của chính quyền trung ương, tạo kênh thông tin hiệu quả, thúc đẩy liên kết giữa các chính quyền địa phương, nâng cao năng lực cạnh tranh vùng, huy động đa dạng các nguồn lực và phát triển đồng bộ giữa các vùng. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ đã được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao trong các Nghị quyết và Chỉ thị khác liên quan đến phát triển vùng kinh tế trọng điểm (Nghị quyết số 128/NQ-CP, Chỉ thị số 19/CT-TTg, Chỉ thị số 25/CT-TTg, Chỉ thị số 27/CT-TTg) và đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước (Nghị quyết số 99/NQ-CP).

Đồng thời, nâng cao vai trò điều phối của chính quyền Trung ương và địa phương; tăng cường năng lực và tiềm lực đối với các viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu thuộc các bộ, ngành trung ương đóng tại các vùng. Đổi mới phân cấp và tăng cường phối hợp liên ngành, liên vùng nhằm tăng cường hiệu quả, giảm chồng chéo, tạo sự thông suốt trong quá trình ra quyết định và thực thi chính sách.

Thứ hai, phát triển hạ tầng và không gian kinh tế vùng. Đầu tư đồng bộ hệ thống hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, yếu tố then chốt để thúc đẩy liên kết vùng thực chất. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng thiếu hạ tầng giao thông kết nối, đặc biệt là đẩy nhanh hoàn thiện các tuyến đường Đông - Tây, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các phương thức vận tải. Đồng thời, xây dựng và phát triển các chuỗi giá trị sản phẩm, cụm ngành kinh tế liên vùng. Để làm được điều đó, cần tập trung vào các sản phẩm chủ lực, phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương để hình thành các chuỗi giá trị hiệu quả, từ vùng nguyên liệu, chế biến đến tiêu thụ, từ đó giúp tối ưu hóa sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm vùng.

Thứ ba, nâng cao vai trò của các chủ thể và huy động nguồn lực. Thúc đẩy sự tham gia tích cực của doanh nghiệp, hợp tác xã, viện nghiên cứu, các chuyên gia, nhất là doanh nghiệp với vai trò là hạt nhân của liên kết vùng trong việc tạo ra chuỗi giá trị và lợi thế cạnh tranh. Cần có các cơ chế, chính sách khuyến khích và phát huy tối đa các nguồn lực cho doanh nghiệp và các bên liên quan thực thi hiệu quả các chương trình hành động liên kết vùng. Đồng thời, đẩy mạnh mô hình liên kết giữa Nhà nước - nhà khoa học - doanh nghiệp - cộng đồng nhằm khắc phục những hạn chế trong sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp và xây dựng nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội. Cần đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho các dự án liên kết vùng; kết hợp hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách Trung ương và địa phương, tranh thủ nguồn vốn ODA, vốn tư nhân và các nguồn vốn khác.

KẾT LUẬN

Liên kết vùng là một trong những định hướng quan trọng đối với Việt Nam nhằm đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. Mặc dù các vùng kinh tế của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về tăng trưởng và đóng góp vào ngân sách, đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo từ cấp cao và sự hình thành các cơ chế phối hợp ban đầu, thực trạng liên kết vùng vẫn còn nhiều hạn chế, chủ yếu do thể chế chưa hoàn thiện, hạ tầng chưa đồng bộ và vai trò điều phối chưa triệt để. Những thách thức kinh tế vĩ mô hiện tại càng làm tăng tính cấp bách của việc thúc đẩy liên kết vùng hiệu quả. Tuy nhiên, liên kết vùng là một nỗ lực dài hạn, đòi hỏi sự quyết tâm bền bỉ, khả năng thích ứng trong hoạch định chính sách và sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị và người dân. Khi đó, Việt Nam mới có thể khai thác triệt để tiềm năng của các vùng, tạo ra không gian phát triển mới, gắn kết và bền vững.

Tài liệu tham khảo:

1. Lê Phương Nam (2022). Một số giải pháp nhằm thúc đẩy liên kết nội vùng ở Việt Nam giai đoạn 2021-2030, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.

2. Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Anh Tuấn và Lê Nữ Minh Quyên (2022). Liên kết vùng ở một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 27, số 2:43-51.

3. Phạm Thị Túy (2023). Thể chế liên kết vùng: Những vấn đề đặt ra và giải pháp khắc phục. Tạp chí Cộng sản. https://www.tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/829305/the-che-lien-ket-vung--nhung-van-de-dat-ra-va-giai-phap-khac-phuc.aspx

4. Tổng cục Thống kê (2024). Niên giám thống kê năm 2023, Nxb Thống kê.

Ngày nhận bài: 8/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 13/8/2025; Ngày duyệt đăng: 15/8/2025