Đặng Thị Hàn Ni
Nghiên cứu sinh Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích vai trò của hóa đơn điện tử trong công bằng và hiệu quả thuế và chỉ ra những hạn chế trong cơ chế hóa đơn điện tử ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị của OECD, IMF, nghiên cứu đề xuất lộ trình 2025-2030 với 4 nhóm giải pháp: (i) Hoàn thiện dữ liệu và hạ tầng công nghệ; (ii) Mở rộng nghĩa vụ lập hóa đơn với cơ chế tối giản cho hộ, cá nhân; (iii) Thiết kế chính sách thuế thu nhập cá nhân như một đòn bẩy hành vi để khuyến khích lấy hóa đơn; (iv) Tăng cường quản lý rủi ro qua mô hình CTC và phân tích dữ liệu. Nếu triển khai đồng bộ, hệ thống hóa đơn điện tử sẽ góp phần giảm thất thu, hạ chi phí hành thu và chi phí tuân thủ, đồng thời củng cố công bằng và minh bạch thuế.
Từ khóa: Hóa đơn điện tử, vùng chưa quan sát, công bằng thuế, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, quản trị dữ liệu
Summary
This study analyzes the role of e-invoice in promoting tax equity and efficiency, and points out the current limitations in Vietnam’s e-invoice mechanism. Based on international experience and the recommendations of the OECD and IMF, the study proposes a roadmap for the period 2025–2030 with four groups of solutions: (i) Improving data quality and technological infrastructure; (ii) Expanding invoicing obligations with a simplified mechanism for household businesses and individuals; (iii) Designing personal income tax policies as behavioral levers to encourage invoice collection; (iv) Enhancing risk management through the CTC model and data analytics. If implemented synchronously, the e-invoice system will contribute to reducing revenue losses, lowering administrative and compliance costs, and strengthening tax equity and transparency.
Keywords: E-invoice, informal sector, tax equity, value-added tax, personal income tax, data governance
VAI TRÒ CỦA HÓA ĐƠN ĐIỆN TỬ TRONG CÔNG BẰNG VÀ HIỆU QUẢ THUẾ
Tính đến thời điểm hiện tại, 100% doanh nghiệp và tổ chức kinh tế đã chuyển đổi sang hóa đơn điện tử, xóa bỏ hoàn toàn hóa đơn giấy trong khu cực doanh nghiệp. Điều đó không chỉ thể hiện quyết tâm cải cách của ngành Thuế, mà còn phản ánh sự thay đổi về nhận thức và năng lực thích ứng của doanh nghiệp.
Hóa đơn điện tử đang dần trở thành trung tâm kết nối trong toàn bộ tiến trình chuyển đổi số ngành Tài chính - Thuế. Với khả năng tích hợp dữ liệu liên thông với Ngân hàng, Hải quan, Bảo hiểm xã hội và các nền tảng thương mại điện tử, hệ thống này đang mở ra tiềm năng lớn cho công tác điều hành vĩ mô, phân tích chính sách và giám sát tài khóa ở tầm quốc gia.
Trong cơ chế “tự tính - tự khai - tự nộp”, hóa đơn là căn cứ pháp lý của giao dịch mua - bán, là đầu vào để xác định doanh thu, chi phí, thu nhập chịu thuế và điều kiện khấu trừ, quyết toán, hoàn thuế. Khi chuỗi chứng từ bị đứt gãy (không lập hóa đơn ở mắt xích bán lẻ) thì cơ quan Thuế mất khả năng đối soát dữ liệu. Hóa đơn còn là “nhân chứng” của cung đường hàng hóa, giúp cơ quan quản lý nhà nước giám sát luồng hàng.
Nếu thị trường Việt Nam còn “khoảng trống” trong việc xuất hóa đơn thì bên bán có thể giấu doanh số, trốn thuế, hoặc hợp thức chi phí khống, gây bất bình đẳng. Dữ liệu từ Tổng cục Thuế (nay là Cục Thuế, Bộ Tài chính) cho thấy, tính đến 19/8/2024, số hóa đơn điện tử cơ quan Thuế xử lý là 9,6 tỷ, trong đó có 2,4 tỷ hóa đơn có mã, 6,4 tỷ hóa đơn không mã, 0,8 tỷ hóa đơn từng lần và từ máy tính tiền.
Trong khi đó, các vụ án mua bán hóa đơn vẫn diễn ra, cho thấy cơ chế dữ liệu hiện chưa đủ khép kín để triệt tiêu động cơ gian lận. Thực tế, các vụ án mua bán hóa đơn vẫn xuất hiện, điển hình đường dây tại miền Trung giai đoạn xét xử 6/2025, quy mô trốn thuế trên 170 tỷ đồng (Báo Nhân Dân điện tử, 2025); hay đường dây mua bán hóa đơn trốn thuế gần 2.000 tỷ đồng (Báo Tiền Phong, 2025) là bằng chứng rằng thiết kế quy phạm và cơ chế dữ liệu hiện chưa đủ “khép kín” để triệt tiêu động cơ gian lận. Nghiên cứu tập trung giải quyết vấn đề: muốn chống thất thu bền vững và bảo đảm công bằng thuế, pháp luật về hóa đơn phải được thiết kế như “trục dữ liệu” bao phủ mọi giao dịch, đồng thời tạo động cơ kinh tế đúng cho cả bên bán và bên mua phải xuất - nhận hóa đơn.
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Nhìn ở bình diện quốc tế, Liên minh châu Âu (EU) đang triển khai chương trình VAT in the Digital Age (ViDA), hướng tới nghĩa vụ hóa đơn điện tử B2B (giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp) theo lộ trình 2025-2028, đồng thời hệ thống PEPPOL (hạ tầng chuẩn hóa trao đổi chứng từ số trong EU) trở thành nền tảng kỹ thuật chủ chốt (Council of the EU, 2025). Các khuyến nghị của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) và bằng chứng thực nghiệm của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy e-invoicing/CTC giúp tăng cường tuân thủ và giảm thất thu một cách có thể đo lường.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước đã mở rộng nghĩa vụ hóa đơn tới mọi giao dịch chịu thuế hoặc đặt ngưỡng rất thấp kèm yêu cầu cấp hóa đơn khi khách hàng yêu cầu. Cơ quan thuế Australia (ATO) quy định người bán phải cấp “tax invoice” khi khách hàng yêu cầu với giao dịch từ 82,50 AUD trở lên - cơ chế đơn giản nhưng hiệu quả để bảo đảm quyền đòi hóa đơn của bên mua và duy trì tính liên tục của chuỗi chứng từ. Ở Đức, theo lộ trình, hóa đơn điện tử B2B sẽ trở thành bắt buộc, qua đó loại bỏ “khoảng mờ” về hình thức và chuẩn dữ liệu từ 2025-2028 (Council of the EU, 2025). Indonesia cũng áp dụng hóa đơn điện tử VAT (e-Faktur) bắt buộc cho người nộp thuế giá trị gia tăng từ 2016. Điều này cho thấy các quốc gia không chỉ mở rộng phạm vi nghĩa vụ mà còn thống nhất chuẩn dữ liệu.
Chuẩn “hóa đơn đủ điều kiện” (Qualified Invoice System) để khấu trừ của bên mua là trụ cột ở Nhật Bản từ ngày 1/10/2023. Nếu không có hóa đơn chuẩn, người mua không được khấu trừ thuế đầu vào - một cơ chế đặt quyền lợi bên mua làm đòn bẩy yêu cầu hóa đơn ở mọi giao dịch mua bán. Còn ở các nước không cho cá nhân khấu trừ thuế thu nhập cá nhân theo chi tiêu, thì thiết kế “đòn bẩy hành vi” như quay số hóa đơn trúng thưởng (Latin America), hoàn tiền nhỏ theo hóa đơn điện tử, điểm thưởng thuế, hoặc cho phép khấu trừ có mục tiêu (giáo dục, y tế, thuê nhà) nếu thanh toán số và có hóa đơn.
Hàn Quốc triển khai e-Tax invoice từ năm 2011; Indonesia áp dụng e-Faktur (hóa đơn điện tử VAT) cho người nộp thuế từ năm 2016. Điểm chung của các mô hình này là chuẩn hóa dữ liệu, định danh chủ thể và giao dịch, đồng thời đối soát tự động.
Theo khuyến nghị của OECD (2017) về tính trung lập, minh bạch, đơn giản và bằng chứng IMF (2019-2024) về hiệu quả e-invoicing củng cố lập luận chuyển sang mô hình kiểm soát liên tục/CTC cho nhóm rủi ro.
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG HẠN CHẾ TRONG CƠ CHẾ HÓA ĐƠN ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM
Bao phủ “vùng chưa quan sát” trong nghĩa vụ lập hóa đơn
Để bảo đảm quyền kinh doanh của cá nhân, từ năm 2006, khái niệm “hộ kinh doanh” được đưa vào văn bản pháp luật, chỉ nhóm kinh doanh nhỏ lẻ. Do quy mô nhỏ, Nhà nước áp dụng thuế khoán - mức thuế ấn định dựa trên doanh thu ước tính, không phải kê khai chi tiết và không bắt buộc xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Quy định này làm đứt gãy chuỗi giám sát, vì một nhóm hộ kinh doanh không phát hành hóa đơn cho người tiêu dùng.
Gần đây, lộ trình tiến tới việc giám sát sử dụng hóa đơn trên thị trường đã được thay đổi từng bước bằng cách đưa nhóm đối tượng hộ, cá nhân kinh doanh tham gia vào chuỗi quản lý hóa đơn bắt buộc. Cụ thể, từ ngày 1/6/2025, hộ và cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng/năm trở lên bắt buộc phải sử dụng hóa đơn điện tử; đến đầu năm 2026, hộ, cá nhân kinh doanh phải chuyển từ thuế khoán, sang thực hiện kê khai, ghi nhận đầy đủ và nộp thuế theo quy định quản lý thuế. Quy định về giải pháp thực thi là kể từ 1/6/2025, hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu trên 1 tỷ đồng/năm buộc phải sử dụng hóa đơn khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối với cơ quan thuế và đến ngày 1/1/2027, sẽ hạ mức doanh thu xuống từ 800 triệu đồng/năm trở lên, phải áp dụng hóa đơn khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối với cơ quan Thuế.
Có thể thấy rằng, vẫn còn một bộ phận hộ, cá nhân kinh doanh dưới ngưỡng doanh thu hiện không bắt buộc lập hóa đơn theo từng giao dịch. Khoảng trống này làm đứt gãy chuỗi chứng từ: hàng hóa, dịch vụ đã bán ra nhưng không để lại “dấu vết” ở đầu cuối, khiến doanh nghiệp ở khâu trước có thể xuất hóa đơn sang bên thứ ba - bên không có giao dịch thực; cơ quan Nhà nước có thể bị lợi dụng hóa đơn khống này để quyết toán, trục lợi từ ngân sách. Về bản chất, đây là vấn đề thiết kế phạm vi nghĩa vụ: nếu chỉ “kéo lưới” ở đối tượng doanh nghiệp, còn để lọt giao dịch của hộ, cá nhân ở khâu mua bán trực tiếp nhỏ lẻ, chuỗi dữ liệu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập sẽ luôn có khoảng trống chưa được quan sát.
Theo nguyên lý trung lập và công bằng, không có lý do kinh tế - pháp lý thuyết phục để miễn nghĩa vụ lập hóa đơn theo giao dịch cho một nhóm chủ thể nhất định nếu họ tham gia thị trường có thuế. Việc miễn chỉ nên thể hiện ở nội dung thuế (thuế suất/miễn thu) chứ không phải miễn chứng từ, bởi chứng từ là điều kiện của minh bạch và kiểm soát. Xét về chi phí và lợi ích xã hội thì mọi cơ chế “miễn hóa đơn” tạo ngoại ứng tiêu cực là tăng chi phí giám sát về sau (thanh tra, điều tra), làm méo động cơ của tác nhân tuân thủ. Trái lại, nghĩa vụ lập hóa đơn tối giản (đơn giản, phát hành số qua ứng dụng miễn phí) có chi phí biên thấp trong kỷ nguyên số, nhưng lợi ích hệ thống rất lớn vì khép kín dữ liệu đầu ra. Ở Việt Nam, đã có hạ tầng hóa đơn điện tử thì bài toán còn lại là thiết kế phạm vi nghĩa vụ và tạo thuận lợi cho hộ, cá nhân kinh doanh ứng dụng công nghệ (sử dụng di động, hóa đơn tối giản, liên kết ví, mã QR…) thì không khó để lấp đầy vùng chưa được quan sát.
Nghiên cứu cho rằng, mở rộng nghĩa vụ lập hóa đơn tới mọi giao dịch bán hàng hóa, dịch vụ có thuế, theo lộ trình rủi ro, thu hẹp quy mô, tối giản trường thông tin đối với hộ, cá nhân và bảo đảm quyền yêu cầu hóa đơn của người mua (mẫu tối giản, phát hành tức thời) thì sẽ góp phần kiểm soát được thuế trên thị trường.
Xây dựng động cơ để người tiêu dùng phải “đòi hóa đơn”
Một chính sách thuế luôn liên quan đến nhiều sắc thuế. Trong đó, hóa đơn và chứng từ kế toán có vai trò đối với thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, cơ chế thuế thu nhập cá nhân hiện nay áp dụng mức giảm trừ gia cảnh cố định, khiến người tiêu dùng không có lợi ích tài chính trực tiếp khi yêu cầu hóa đơn cho từng khoản chi tiêu. Hệ quả là bên mua không “đòi” hóa đơn, kéo theo bên bán có động cơ không lập hóa đơn để giảm nghĩa vụ thuế, làm đứt gãy chuỗi dữ liệu ở khâu cuối.
Nhìn từ các nước, chuẩn “hóa đơn đủ điều kiện” (Qualified Invoice System) ở Nhật Bản là một cơ chế đặt quyền lợi bên mua làm đòn bẩy yêu cầu hóa đơn ở mọi giao dịch mua bán. Còn ở các nước không cho cá nhân khấu trừ thuế thu nhập cá nhân theo chi tiêu, thì thiết kế “đòn bẩy hành vi” như quay số hóa đơn trúng thưởng (Latin America), hoàn tiền nhỏ theo hóa đơn điện tử, điểm thưởng thuế hoặc cho phép khấu trừ có mục tiêu (giáo dục, y tế, thuê nhà) nếu thanh toán số và có hóa đơn.
ĐỊNH HƯỚNG CHO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2025-2030
Dựa trên thực trạng và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu đề xuất lộ trình 2025-2030 tập trung vào 4 nhóm giải pháp sau:
Thứ nhất, về nền tảng dữ liệu và công nghệ, Việt Nam cần chuyển từ cơ chế “nộp - lưu” sang giám sát liên tục dựa trên rủi ro. Với kho 9,6 tỷ hóa đơn điện tử đã được xử lý tính đến tháng 8/2024, điều kiện hạ tầng cơ bản đã sẵn sàng. Để hiện thực hóa, cần: (i) Chuẩn dữ liệu và định danh thống nhất (mã giao dịch/hóa đơn, định danh chủ thể, QR chuẩn); (ii) Liên thông bắt buộc giữa hóa đơn với dữ liệu thanh toán, Hải quan và đăng ký kinh doanh; (iii) Cơ chế CTC/tiền kiểm có trọng điểm với ngành rủi ro, song song hậu kiểm dựa trên phân tích dữ liệu.
Thứ hai, về chính sách, cần mở rộng nghĩa vụ lập hóa đơn tới mọi giao dịch chịu thuế theo lộ trình phù hợp với quy mô và mức độ rủi ro. Đối với hộ, cá nhân kinh doanh, có thể áp dụng mẫu hóa đơn tối giản, phát hành qua ứng dụng miễn phí, bảo đảm quyền yêu cầu hóa đơn của người mua (cơ chế ngưỡng giá trị nhỏ, tương tự Australia). Các trường thông tin bắt buộc, mã định danh và QR chuẩn cần được thiết kế tương thích với chuẩn quốc tế PEPPOL/ViDA để tạo thuận lợi cho hội nhập và giao thương. Đồng thời, phải thiết lập cơ chế “hóa đơn đủ điều kiện” làm điều kiện khấu trừ thuế trong thanh toán.
Thứ ba, về thiết kế chính sách thuế thu nhập cá nhân, cần tận dụng công cụ này như một đòn bẩy hành vi để thúc đẩy người tiêu dùng yêu cầu hóa đơn. Có thể thí điểm khấu trừ thuế thu nhập cá nhân có mục tiêu (với trần nhỏ) cho một số nhóm chi tiêu nếu có hóa đơn điện tử và thanh toán số; tích hợp mã QR cá nhân trên hóa đơn để kết nối tự động với hồ sơ quyết toán; đồng thời áp dụng cơ chế bắt buộc cấp hóa đơn khi người mua yêu cầu, với ngưỡng giá trị nhỏ. Khi cá nhân được khấu trừ chi tiêu, sẽ tạo ra công bằng kép: người có thu nhập cao được trừ chi phí cao hơn, tránh tình trạng “cào bằng” như hiện nay; đồng thời khuyến khích người tiêu dùng yêu cầu hóa đơn, buộc bên bán phải lập hóa đơn. Như vậy, cả bên mua và bên bán cùng tham gia giám sát, bảo đảm chuỗi dữ liệu hóa đơn khép kín đến người tiêu dùng cuối cùng.
Thứ tư, về quản lý rủi ro, cần thành lập trung tâm phân tích dữ liệu hóa đơn theo mô hình đồ thị giao dịch để phát hiện cộng đồng bất thường, lập danh sách cảnh báo và đối soát dữ liệu khai thuế với mã hóa đơn giữa bên mua và bên bán. Cơ quan Thuế sẽ thực hiện hậu kiểm dựa trên phân tích rủi ro, xếp hạng người nộp thuế theo lịch sử tuân thủ, mạng lưới đối tác, tần suất và giá trị hóa đơn, đồng thời tăng xác suất kiểm tra với nhóm rủi ro cao. Hướng tới, quản lý sẽ tiến triển thành bản đồ liên thông tự động giữa hóa đơn - thanh toán số - Hải quan - đăng ký kinh doanh.
Tài liệu tham khảo:
1. Australian Taxation Office (n.d.). Tax invoices. https://www.ato.gov.au/business/gst/tax-invoices/.
2. Council of the European Union (2025). VAT in the Digital Age: e‑invoicing and digital reporting requirements. https://www.consilium.europa.eu/.
3. Direktorat Jenderal Pajak - DJP (n.d.). e‑Faktur (Electronic Tax Invoice). https://efaktur.pajak.go.id/.
4. IMF (2019, 2023, 2024). Tax Administration: Essential Analytics for Compliance. Technical Notes and Manuals. Washington, DC: International Monetary Fund.
5. MOEF Korea (2013). Implementation of Electronic Tax Invoice and VAT Refund for Tourists. https://www.moef.go.kr/.
6. National Tax Agency Japan (2023). Qualified Invoice System. https://www.nta.go.jp/.
7. Nhân Dân (2025). Đà Nẵng: Xét xử đường dây mua bán hóa đơn trái phép, trốn thuế hơn 170 tỷ đồng. Báo Nhân Dân. https://nhandan.vn/da-nang-xet-xu-duong-day-mua-ban-hoa-don-trai-phep-tron-thue-hon-170-ty-dong-post889233.html.
8. OECD (2017). International VAT/GST Guidelines. Paris: OECD Publishing.
9. Tổng cục Thuế (2024). Báo cáo tình hình triển khai hóa đơn điện tử 6 tháng đầu năm 2024. https://www.gdt.gov.vn/.
10. Tiền Phong (2025). Bóc gỡ 4 đường dây mua bán hóa đơn gần 2.000 tỷ đồng. Báo Tiền Phong. https://tienphong.vn/boc-go-4-duong-day-mua-ban-hoa-don-gan-22000-ty-dong-post1758210.tpo.
Ngày nhận bài: 5/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 29/8/2025; Ngày duyệt đăng: 31/8/2025 |