Phát triển đất nước đến năm 2030 đạt được tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, trong đó có tự chủ về kinh tế.
Đây là mục tiêu được đưa ra trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng (Dự thảo Văn kiện của Đảng).
Trao đổi với Tuổi Trẻ về mục tiêu này, ông Nguyễn Đức Hiển - Phó trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương - cho rằng đây là một mục tiêu nhiều tham vọng, cần sự quyết tâm, nỗ lực rất lớn để đạt được.

Xuất khẩu là một động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế những năm tới - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Trong khi đó, sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước rất hạn chế. Theo tính toán, khoảng 18% doanh nghiệp Việt có kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu và chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp lớn.
Chất lượng các nhà cung ứng nội địa của Việt Nam ở mức thấp, xếp hạng 116/137 quốc gia, kém xa các nước trong khu vực như: Malaysia xếp hạng 23, Indonesia xếp hạng 54, Philippines xếp hạng 73 hay Thái Lan xếp hạng 74 (World Economic Forum, 2024).
Công nghiệp hỗ trợ mới chỉ đáp ứng khoảng 10-15% nhu cầu trong nước. Doanh nghiệp Việt do đó vẫn loay hoay ở những khâu gia công, lắp ráp có giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị.
* Chúng ta cần làm gì để đạt được tự chủ kinh tế?
- Để đạt được tự chủ về kinh tế, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chiến lược, trong đó định hướng xuyên suốt là nâng cao năng lực tự chủ, tự cường của nền sản xuất quốc gia, tạo lập sự cân bằng hợp lý giữa khai thác, phát huy nội lực - thị trường trong nước và các nguồn lực nội tại với các nguồn lực từ bên ngoài - FDI và xuất nhập khẩu.
Cụ thể, phải tái cấu trúc mô hình, chiến lược xuất khẩu, chuyển mạnh từ mô hình xuất khẩu dựa trên số lượng sang xuất khẩu giá trị gia tăng cao, từ chiếm lĩnh thị trường bằng cạnh tranh về giá sang chiến lược xuất khẩu dựa trên thương hiệu, tiêu chuẩn cao và sản phẩm có hàm lượng công nghệ, thiết kế, đậm chất "make in Vietnam".

Hạ tầng kết nối hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trưởng - Ảnh: HỒNG QUANG
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo chiều sâu, hướng vào lõi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo hướng chú trọng gia tăng giá trị trong nước trong xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện nhập khẩu.
Nâng cao năng lực tự chủ của Việt Nam khi tham gia vào GVC. Theo đó, khuyến khích, tạo lập môi trường kích thích doanh nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi, nâng cao tỉ lệ đóng góp nội địa, gia tăng hàm lượng "make in Vietnam" trong giá trị xuất khẩu.
Đồng thời, thúc đẩy các doanh nghiệp nội địa tham gia vào các phân khúc giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị. Khuyến khích doanh nghiệp trong nước đa dạng hóa chuỗi cung ứng, giảm sự phụ thuộc vào một số đối tác thương mại lớn như Mỹ, Trung Quốc, chủ động tìm kiếm thị trường mới.
Chuẩn bị các điều kiện để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng chiến lược của các nước có tiềm lực khoa học, công nghệ cao.

Trung tâm R&D của Samsung tại Hà Nội - Ảnh: HỒNG QUANG
Cùng với các chính sách nghiêm ngặt nhằm kiểm soát và "chống thất thoát" công nghệ lõi, công nghệ chiến lược từ một số quốc gia lớn, tạo ra cả cơ hội và nguy cơ "bị bỏ lại phía sau" cho những quốc gia không bắt kịp.
Đồng thời, xu hướng chuyển đổi xanh và phát triển bền vững đang trở thành một tiêu chuẩn bắt buộc, đặt ra yêu cầu về công nghệ sạch và các quy chuẩn phát thải khắt khe…
Ở trong nước, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 chưa đạt mục tiêu đề ra và đang thấp hơn nhiều so với các quốc gia/vùng lãnh thổ châu Á trong giai đoạn vượt bẫy thu nhập trung bình như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong và Singapore.
Trong khi đó, các động lực tăng trưởng truyền thống đang dần tới hạn. Năng suất lao động và hiệu quả tổng hợp (TFP) nếu tiếp tục theo xu hướng và cách thức khai thác cũ chưa đủ sức gánh vác mục tiêu tăng trưởng hai con số.

Nhà ga sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất - cửa ngõ kết nối TP.HCM với thế giới - Ảnh: A LỘC
Vừa qua, Trung ương đã ban hành và tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả cao nhiều quyết sách chiến lược mang tính cách mạng. Việc tinh gọn bộ máy và "sắp xếp lại giang sơn" giúp tối ưu hóa nguồn lực, tạo ra không gian phát triển mới, lợi thế hơn.
Môi trường chính trị - xã hội ổn định cùng với lợi thế rất lớn về vị trí địa chính trị, địa kinh tế đặc biệt và việc hội nhập mạnh mẽ với 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết với khoảng 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 20 nước, trong đó có tất cả các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Đồng thời, Việt Nam đang đứng trước cơ hội trở thành điểm thu hút các dòng vốn FDI chất lượng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ, năng lượng xanh; cơ hội tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, không chỉ gia công lắp ráp mà còn ở các khâu có giá trị cao hơn như R&D, thiết kế và marketing.
Bên cạnh đó, các mô hình kinh tế mới và các ngành kinh tế mới đầy tiềm năng đang tạo ra cơ hội bứt phá cho Việt Nam như: kinh tế số, kinh tế dữ liệu và AI, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế chăm sóc, kinh tế carbon thấp, kinh tế tầm thấp, kinh tế không gian vũ trụ, một số ngành công nghiệp như chip bán dẫn, tự động hóa, công nghiệp sinh học, năng lượng mới.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để cải thiện năng suất lao động - Ảnh: HỒNG QUANG
Tiềm năng của kinh tế số là rất khổng lồ, được dự báo có thể đóng góp từ 90 - 200 tỉ USD vào GDP năm 2030 (E-conomy, SEA 2024). Riêng AI có thể đóng góp 120 - 130 tỉ USD vào GDP đến năm 2034 (Pitchbook, Báo cáo GenAI Startup 2024).
Các tính toán định lượng của nhóm nghiên cứu Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho thấy việc thúc đẩy tốc độ chuyển đổi số và sự gia tăng của một số ngành công nghệ nền tảng có tác động tích cực, đáng kể đến tăng trưởng GDP.
Tuy nhiên, thách thức hiện tại là sự lan tỏa của kinh tế số trong nền kinh tế còn rất hạn chế. Phần lớn giá trị kinh tế số vẫn tập trung ở các ngành lõi thay vì thẩm thấu và nâng cao năng suất cho các ngành kinh tế khác.
Tác động tổng hợp của các yếu tố nêu trên có thể giúp nền kinh tế có bước chuyển mạnh mẽ, tăng trưởng và phát triển đột phá trong giai đoạn tới.

Bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước đang đặt ra cho Việt Nam bài toán phát triển đầy thách thức nhưng cũng không ít cơ hội.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao trên 10% trong giai đoạn 2026 - 2030, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu không thể khác, đó là phải có đột phá trong tư duy và quyết liệt trong hành động.
Trước hết, cần bắt đầu từ sự thay đổi trong tư duy chính sách. Việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao phải bảo đảm không đánh đổi tăng trưởng bằng mọi giá, đặt ưu tiên hàng đầu cho ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế với những bước đi chiến lược.
Việt Nam cần thực hiện đồng thời các yêu cầu vừa "làm mới" các động lực tăng trưởng truyền thống, vừa phải kích hoạt được các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy phát triển các mô hình, không gian kinh tế mới, các ngành kinh tế mới, trên cơ sở nâng nhanh năng lực nội tại, tính độc lập, tự chủ, tạo sức bật cho nền kinh tế.
* Một trong những yếu kém được chỉ ra trong dự thảo văn kiện là tăng trưởng kinh tế vẫn ở dưới mức tiềm năng, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, chúng ta cần làm gì để cải thiện?
- Gia tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế là yêu cầu xuyên suốt, hướng tới thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao trên 10% trong giai đoạn tới. Các giải pháp nhằm gia tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế sẽ là những giải pháp bao trùm, toàn diện.
Trong đó, tập trung thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là trung tâm gia tăng năng lực sản xuất. Tạo đột phá trong lĩnh vực về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một yếu tố then chốt để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Song song với đó, đẩy mạnh đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo động lực then chốt nâng cao năng suất và hiệu quả.
Siêu đô thị Hà Nội, TP.HCM hai cực tăng trưởng quan trọng của đất nước - Ảnh: HỒNG QUANG - CHÂU TUẤN
Tăng cường nội lực, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các ngành, trong từng khâu. Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh một số ngành công nghiệp nền tảng.
Phát triển các loại hình dịch vụ mới, dịch vụ kết nối có lợi thế, có giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, tài sản số, dịch vụ thương mại, dịch vụ vận tải, logistics...
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong nông nghiệp. Phát triển các vùng sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng và giá trị gia tăng cao, gắn với chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sản phẩm.

Đó là, Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là "đột phá quan trọng hàng đầu" để thúc đẩy hiện đại hóa và tạo động lực tăng trưởng mới.
Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới được coi là "đột phá của đột phá", theo đó cải cách thể chế không chỉ để quản lý mà kiến tạo phát triển, giải phóng và huy động mọi nguồn lực.
Nghị quyết số 60-NQ/TW về sắp xếp các tỉnh, thành phố và chuyển sang chính quyền hai cấp là một bước đi quan trọng, mở ra nhiều cơ hội phát triển.
Ngoài ra, Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, nâng tầm hội nhập đối với tất cả các lĩnh vực, với mục tiêu hội nhập quốc tế để phát triển và gia tăng nội lực, vị thế quốc gia.
Không chỉ vậy, các động lực tăng trưởng mới còn được xác định bởi các mô hình kinh tế mới và các ngành mới. Mô hình tăng trưởng mới cũng nhấn mạnh việc thực hiện đồng bộ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới.

Đầu tư mạnh vào các ngành công nghiệp chiến lược sẽ giúp Việt Nam tăng trưởng cao hơn
Đổi mới sáng tạo là yếu tố then chốt để nâng cao năng suất lao động. Tăng trưởng không thể mãi dựa vào tăng số lượng lao động hay vốn đầu tư, mà phải dựa vào tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP), mà cốt lõi của TFP chính là tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây là con đường duy nhất để thoát khỏi ngưỡng lao động giá rẻ.
Đổi mới sáng tạo là điều kiện tiên quyết để tái cấu trúc nền kinh tế và nâng tầm trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Đổi mới sáng tạo giúp doanh nghiệp chuyển dịch từ các công đoạn gia công, lắp ráp (giá trị gia tăng thấp) sang các công đoạn nghiên cứu và phát triển (R&D), thiết kế, làm chủ công nghệ lõi, công nghệ chiến lược và xây dựng thương hiệu (giá trị gia tăng cao).
Đổi mới sáng tạo là nền tảng để xây dựng nền kinh tế tự chủ. Một nền kinh tế tự chủ phải có năng lực tự chủ về công nghệ, làm chủ quy trình sản xuất, và phát triển được các ngành công nghiệp nền tảng.
Chỉ có đổi mới sáng tạo mới giúp giảm phụ thuộc vào máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu nhập khẩu, tăng cường sức chống chịu của nền kinh tế trước các biến động bên ngoài.
Đổi mới sáng tạo tạo ra lợi thế cạnh tranh quốc gia mới. Khi lợi thế về chi phí lao động và tài nguyên dần mất đi, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tương lai phải được xây dựng trên nền tảng tri thức, công nghệ và các mô hình kinh doanh mới.

Đại học VinUni một cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao những năm qua - Ảnh: HỒNG QUANG
