
Hệ thống THAAD được triển khai tại Israel giúp tăng cường khả năng phòng không nội địa của nước này (Ảnh: WSJ).
Quân đội Mỹ hiện có 7 hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) tối tân. Trong cuộc chiến kéo dài 12 ngày với Iran hồi tháng 6, hai hệ thống đã được triển khai tới Israel nhưng vẫn chưa đủ.
Hoạt động cùng với các hệ thống của Israel, các lực lượng vận hành THAAD đã tiêu tốn đạn dược với tốc độ chóng mặt, bắn hơn 150 tên lửa để bắn hạ các đợt tên lửa đạn đạo của Iran, theo các quan chức Mỹ. Con số này chiếm gần 25% số tên lửa đánh chặn mà Lầu Năm Góc từng mua.
Nhu cầu quá lớn đến nỗi có lúc Lầu Năm Góc đã cân nhắc kế hoạch chuyển hướng các tên lửa đánh chặn do Ả rập Xê út mua sang các hệ thống ở Israel, một quan chức cho biết.
Nhưng không chỉ có riêng THAAD. Lầu Năm Góc cũng đã sử dụng một số lượng lớn tên lửa đánh chặn trên tàu, và Israel đã nhanh chóng rút hết kho dự trữ cho các hệ thống của riêng mình. Dù sao thì hàng chục tên lửa của Iran cũng đã lọt qua.
Khả năng đánh chặn các mối đe dọa trên không của Israel đã được thử thách bởi các loạt tên lửa đạn đạo của Iran.
Trong khi các quan chức Israel ghi nhận công lao của các hệ thống Mỹ vì đã cứu sống hàng nghìn người, cuộc chiến đã phơi bày một lỗ hổng đáng báo động trong nguồn cung cấp của Washington.
Mỹ cũng phát hiện ra sự thiếu hiệu quả trong cách khai hỏa các hệ thống chống tên lửa và đang xem xét kỹ lưỡng hiệu suất của một số tên lửa đánh chặn. Một số nhà hoạch định của Lầu Năm Góc cho rằng, hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ - được thiết kế để bảo vệ quân đội và tài sản của nước này khỏi các cuộc tấn công có chủ đích của các đối thủ - là không đủ cho một thế giới mà tên lửa đạn đạo giá rẻ, cồng kềnh đã trở thành vũ khí trên không được lựa chọn.
Mùa xuân này, Hải quân Mỹ đã giao tranh với nhóm Houthi ở Yemen, nhóm quân sự đã biến tên lửa thành trọng tâm trong kho vũ khí của mình. Ukraine đã nhiều lần bị Nga không kích dữ dội, và Moscow cũng đang sử dụng tên lửa và máy bay không người lái thay vì đặt phi công của mình vào tình thế nguy hiểm.
Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào việc phát triển tên lửa và đang nhanh chóng chế tạo vũ khí mà họ có thể sử dụng để ngăn chặn Mỹ trong bất kỳ cuộc xung đột nào trong tương lai. “Cuối cùng chúng ta cũng đã nhận ra nhu cầu mua sắm đạn dược phòng thủ quy mô lớn”, Tom Karako, Giám đốc Dự án Phòng thủ Tên lửa tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), cho biết.
Phó Đô đốc Brad Cooper, người sắp nắm quyền chỉ huy Bộ Tư lệnh Trung ương Mỹ, Cơ quan chịu trách nhiệm về các hoạt động quân sự của nước này tại Trung Đông, đã phát biểu trước Quốc hội vào tháng 6 rằng các quan chức cần phải hành động với tinh thần khẩn trương. “Tôi lo ngại về mọi thứ, nhưng một trong những mối lo ngại sẽ là đạn dược và độ sâu của kho đạn”, ông Cooper nói.
Mỗi THAAD có thể chứa 48 tên lửa đánh chặn giữa 6 bệ phóng và cần khoảng 100 binh sĩ Mỹ để nạp đạn, phân tích dữ liệu, thực hiện bảo trì và bắn tên lửa đánh chặn 24/7.
“Theo tôi biết, Mỹ chưa bao giờ triển khai hai THAAD ở một quốc gia trước đây”, Dan Shapiro, người đứng đầu chính sách Trung Đông tại Lầu Năm Góc dưới thời chính quyền Tổng thống Biden và hiện là thành viên cấp cao tại tổ chức tư vấn Atlantic Council, cho biết. “Đây là một cam kết phi thường về công nghệ và nhân sự của Mỹ đối với an ninh của Israel", ông nói.
Lầu Năm Góc đã gửi yêu cầu bổ sung tên lửa đánh chặn trong chiến tranh, nhưng nguồn cung cấp rất hạn chế. Mỗi tên lửa đánh chặn THAAD có giá khoảng 13 triệu USD, theo các tài liệu ngân sách, và Lầu Năm Góc đã mua khoảng 650 tên lửa kể từ năm 2010. Các quan chức Mỹ đã tìm cách mua 37 tên lửa trong năm tài chính tiếp theo.
Lockheed Martin, nhà sản xuất hệ thống này, cho biết họ có thể sản xuất khoảng 100 tên lửa đánh chặn trong năm nay và đang làm việc với chính phủ Mỹ về các phương án tăng sản lượng cho các đơn đặt hàng mới.
Theo Wes Rumbaugh, nghiên cứu viên của CSIS, chuyên nghiên cứu chi tiết về mua sắm tên lửa và ngân sách của Lầu Năm Góc, quân đội Mỹ có thể sẽ mất hơn 1 năm và tốn từ 1,5 - 2 tỷ USD để bổ sung các tên lửa đánh chặn THAAD đã được phóng trong cuộc chiến kéo dài 12 ngày.
Các nhà phân tích cho biết việc triển khai hệ thống này đến Trung Đông đã gia tăng căng thẳng năng lực sẵn sàng của Mỹ và báo hiệu nhu cầu ngày càng tăng không chỉ đối với tên lửa đánh chặn mà còn cả các bệ phóng.
Các sĩ quan quân đội cho biết trong một thế giới lý tưởng, cứ mỗi một hệ thống THAAD được triển khai thì cần có hai hệ thống tại Mỹ. Theo khái niệm này, một hệ thống được triển khai, một hệ thống khác sẽ được đưa về để bảo trì và nâng cấp, và hệ thống thứ ba tham gia huấn luyện cho lần triển khai tiếp theo.
Trong số 7 hệ thống THAAD đang hoạt động của Mỹ, hai hệ thống hiện đang ở tuyến đầu tại Israel. Hai hệ thống khác được cam kết triển khai dài hạn tại đảo Guam và Hàn Quốc, một hệ thống khác được triển khai tới Ả rập Xê út, và hai hệ thống khác ở lục địa Mỹ. Hệ thống thứ tám đã được sản xuất nhưng chưa hoạt động hoàn toàn.
Theo một sĩ quan Lục quân, người hỗ trợ huấn luyện lực lượng phòng không, với 5 trong số 7 hệ thống THAAD được triển khai, Mỹ có thể sẽ gặp phải vấn đề "dwelling" (tạm dừng hoạt động), trong đó các đơn vị không có thời gian nghỉ ngơi cần thiết giữa các lần triển khai.
Mặc dù Israel có hệ thống phòng thủ đa lớp tinh vi, bao gồm các hệ thống như Arrow, David's Sling và Iron Dome, nhưng nước này đã cạn kiệt tên lửa đánh chặn và đang phải tích trữ nguồn lực vào thời điểm xung đột kết thúc. Một quan chức Mỹ cho biết, nếu Iran bắn thêm một vài loạt tên lửa lớn nữa, Israel có thể đã cạn kiệt nguồn cung cấp đạn pháo cho Arrow 3.

Cách hệ thống THAAD do Mỹ cung cấp phù hợp với chiến lược phòng không nhiều lớp của nước này (Ảnh minh họa: WSJ).
Quân đội Israel cho biết họ không tiết lộ số lượng tên lửa đánh chặn hoặc chi tiết hoạt động liên quan đến các hệ thống phòng không của mình. Tuy nhiên, báo cáo nói thêm rằng, trong suốt cuộc chiến, Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) đã có những phương tiện cần thiết để bảo vệ chủ quyền và bảo vệ thường dân.
"Khi chiến tranh tiếp diễn và các cuộc tấn công của Iran tiếp tục, Mỹ đã điều động các tàu khu trục của Hải quân được trang bị để bắn hạ tên lửa đạn đạo hướng tới Israel, đưa 7 tên lửa vào phía đông Địa Trung Hải và Biển Đỏ", nguồn tin nêu rõ.
Hầu hết các tàu khu trục tên lửa dẫn đường lớp Arleigh Burke của Mỹ đều được trang bị một loạt tên lửa đánh chặn tiêu chuẩn, được gọi là SM-2, SM-3 và SM-6, có thể bắn hạ tên lửa đạn đạo và các mối đe dọa trên không khác.
"Những tàu chiến đó cũng đã trải qua các cuộc tấn công bằng tên lửa đánh chặn với tốc độ đáng báo động", quyền Tham mưu trưởng Hải quân, Đô đốc James Kilby, phát biểu tại Đồi Capitol vào tháng 6. Trong cuộc chiến kéo dài 12 ngày, các tàu đã bắn khoảng 80 tên lửa SM-3 vào các mối đe dọa của Iran, theo một quan chức Mỹ. Tên lửa SM-3, do nhà thầu quốc phòng RTX sản xuất, có giá từ 8- 25 triệu USD tùy thuộc vào biến thể.
Mối lo của Mỹ
Lầu Năm Góc cũng lo ngại, tên lửa SM-3, lần đầu tiên được sử dụng trong chiến đấu vào năm ngoái, cũng để chống lại một cuộc tấn công của Iran, đã không phá hủy được nhiều mục tiêu như mong đợi, theo hai quan chức quốc phòng.
Quân đội Mỹ hiện đang xem xét kỹ lưỡng từng vụ phóng để hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra. Một sĩ quan Hải quân tham gia vào quá trình này cho biết còn quá sớm để đánh giá các cuộc giao tranh của SM-3.
Bên cạnh những thách thức do khối lượng lớn tên lửa tấn công gây ra, các tàu chiến Mỹ còn gặp phải vấn đề là cập cảng ở Địa Trung Hải hoặc Biển Đỏ sau khi bắn hạ tất cả các tên lửa đánh chặn, bởi vì Hải quân vẫn chưa có phương pháp nạp lại đạn đáng tin cậy trên biển.
Việc lắp vừa khít một ống phóng thẳng đứng dài 9 mét khiến các thủy thủ không thể để tàu lắc lư qua lại trong quá trình nạp lại đạn - điều này có thể là một vấn đề lớn đối với Mỹ trong trường hợp xảy ra xung đột tiềm tàng.
"Việc nạp lại tên lửa trên biển là một nhiệm vụ đầy thách thức do trọng lượng và kích thước quá lớn của các tên lửa. Nhưng vấn đề lớn nhất vẫn là số lượng", Karako, nhà phân tích phòng thủ tên lửa, cho biết. Theo ông, cuộc chiến vừa qua và khả năng xảy ra các cuộc xung đột khác cho thấy Mỹ cần thêm rất nhiều tên lửa đánh chặn.
"Một mối lo ngại khác là Iran sẽ lại làm điều này", ông nói. "Và chúng ta không thể để điều đó xảy ra lần nữa".