TS. Phạm Mỹ Hằng Phương
Khoa Tài chính – Ngân hàng, Học viện Chính sách và Phát triển
Email: hangphuong.mpi@apd.edu.vn
Tóm tắt
Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, song hiện vẫn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận tín dụng – yếu tố then chốt để duy trì và mở rộng hoạt động. Nguyên nhân đến từ quy mô nhỏ, thiếu tài sản bảo đảm, minh bạch tài chính thấp, chưa có lịch sử tín dụng rõ ràng. Trước thực trạng đó, Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ tín dụng, trong đó nổi bật là hai kênh: Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và Quỹ bảo lãnh tín dụng cấp tỉnh. Mặc dù hai quỹ này đã đạt được một số kết quả nhất định, song vẫn tồn tại nhiều hạn chế trong triển khai thực tế. Bài viết sẽ phân tích hai chính sách trên, đánh giá hiệu quả và những khó khăn còn tồn tại, đồng thời đề xuất giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng cho nhóm doanh nghiệp này trong thời gian tới.
Từ khóa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa, quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo lãnh tín dụng
Summary
Small and medium-sized enterprises play a crucial role in Vietnam’s economy. However, these enterprises face numerous difficulties in accessing credit – a key factor for maintaining and expanding their operations. The challenges stem from their small scale, lack of collateral, low financial transparency, and absence of a clear credit history. In response, the government has implemented various credit support policies, among which two prominent channels are the Small and medium-sized enterprises Development Fund and the provincial-level Credit Guarantee Funds. Although these two funds have achieved certain results, many limitations remain in their practical implementation. This paper will analyze these two policy instruments, assess their effectiveness and the challenges they face, and propose solutions to improve these enterprises’ access to credit in the coming time.
Keywords: Small and medium-sized enterprises, small and medium-sized enterprises development fund, credit guarantee
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm vừa qua, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ngày càng phát triển và có những đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Năm 2022, Việt Nam có 715.179 DNNVV, chiếm 97,2% trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh của cả nước. Mỗi năm, các DNNVV tạo ra khoảng 280.000 việc làm mới, đóng góp khoảng 45% GDP và 31% tổng thu ngân sách của Nhà nước (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2024). Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động và phát triển, các DNNVV thường gặp nhiều rào cản, đặc biệt là khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng – yếu tố sống còn để duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh. Từ phía bản thân doanh nghiệp, phần lớn DNNVV không có đủ tài sản đảm bảo, thiếu thông tin tài chính minh bạch hoặc chưa có lịch sử tín dụng rõ ràng, khiến họ khó có thể tiếp cận được các nguồn vốn từ hệ thống ngân hàng truyền thống. Bên cạnh đó, chi phí vay vốn cao, thời gian xử lý hồ sơ chậm, và thủ tục hành chính rườm rà cũng là những thách thức thường trực mà nhóm doanh nghiệp này phải đối mặt.
Nhận thức được vai trò thiết yếu của DNNVV cũng như những khó khăn đặc thù trong quá trình tiếp cận vốn, Nhà nước đã ban hành và triển khai nhiều chính sách hỗ trợ tín dụng nhằm tháo gỡ nút thắt tài chính cho khu vực doanh nghiệp này, trong đó hai kênh hỗ trợ tín dụng chính là Quỹ Phát triển DNNVV (SMEDF) và Quỹ bảo lãnh tín dụng (QBLTD) cho DNNVV cấp tỉnh. Trong thời gian vừa qua, hoạt động của 2 quỹ này đã đạt được một số kết quả nhất định, hỗ trợ cho sự phát triển của DNNVV trên cả nước. Tuy nhiên, đi kèm với đó là những khó khăn thách thức trong việc triển khai thực tế, khiến kết quả không đạt được kỳ vọng ban đầu đặt ra.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung phân tích chính sách trong hỗ trợ tín dụng cho DNNVV mà Nhà nước đã ban hành, tập trung vào hai kênh hỗ trợ chính là SMEDF và QBLTD cấp tỉnh; đánh giá hiệu quả triển khai cũng như những khó khăn, hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn và nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho DNNVV trong thời gian tới.
CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HỖ TRỢ TÍN DỤNG CHO DNNVV
Quỹ Phát triển DNNVV
SMEDF được thành lập theo Quyết định số 601/QĐ-TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ, trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính). Tổ chức và hoạt động của Quỹ sau đó được quy định, sửa đổi, bổ sung trong Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10/5/2019 và Nghị định số 45/2024/NĐ-CP ngày 26/4/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 39/2019/NĐ-CP. Quỹ được thành lập với mục tiêu hỗ trợ các DNNVV có dự án hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, thuộc các lĩnh vực ưu tiên và khuyến khích của Nhà nước, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo việc làm và gia tăng thu nhập cho người lao động. Hoạt động cho vay của quỹ bao gồm cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp thông qua ngân hàng thương mại. Thời hạn cho vay tối đa là 7 năm; trong trường hợp đặc biệt có thể được gia hạn lên đến 10 năm theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Mỗi dự án hoặc phương án sản xuất, kinh doanh có thể được vay tối đa không quá 80% tổng mức đầu tư (không bao gồm vốn lưu động), nhưng không vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của quỹ. Mức lãi suất cho vay trực tiếp bằng 80% mức thấp nhất lãi suất cho vay thương mại. Tuy nhiên, các điều kiện cho vay của quỹ cũng được thiết kế khá chặt chẽ, bao gồm yêu cầu về bảo đảm tiền vay và tính minh bạch trong hồ sơ tài chính, nhằm kiểm soát rủi ro và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Sau một thời gian hoạt động, SMEDF đã đạt được những thành tích nhất định trong hỗ trợ cấp tín dụng cho DNNVV. Riêng đối với chương trình cho vay gián tiếp, SMEDF đã liên kết với 9 ngân hàng thương mại để thực hiện chương trình, như Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TPCM Bắc Á (Bac A Bank), Ngân hàng TPCM Phát triển TP Hồ Chí Minh (HDBank), Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), Ngân hàng TPCM Sài Gòn – Hà Nội (SHB), Ngân hàng TPCM Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)... Tình hình giải ngân cho vay DNNVV ngày càng được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực. Giai đoạn từ năm 2023 đến tháng 5/2025, SMEDF đã giải ngân cho vay gián tiếp 643,29 tỷ đồng, hơn 3,5 lần so với giai đoạn từ 2022 trở về trước (Văn Tuấn, 2025).
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, hoạt động của SMEDF vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cả về quy mô, cơ chế triển khai và khả năng tiếp cận thực tế. Trước hết, quy mô vốn của quỹ còn khá khiêm tốn, với tổng mức vốn ban đầu khoảng 2.000 tỷ đồng, mỗi năm chỉ hỗ trợ được số lượng dự án hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu vốn rất lớn từ cộng đồng DNNVV trên toàn quốc. Bên cạnh đó, quy trình thẩm định và điều kiện vay vốn của quỹ được đánh giá là phức tạp và khắt khe, tương tự như các khoản vay thương mại, đòi hỏi doanh nghiệp phải có phương án kinh doanh rõ ràng, đảm bảo tài chính minh bạch và có tài sản bảo đảm. Điều này gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ và mới khởi nghiệp – những đối tượng vốn cần được ưu tiên hỗ trợ. Hơn nữa, SMEDF hoạt động theo mô hình tập trung, chưa có mạng lưới triển khai tại địa phương, dẫn đến hạn chế trong việc tư vấn, tiếp cận và giải ngân vốn vay. Công tác truyền thông về quỹ cũng chưa hiệu quả, khiến nhiều doanh nghiệp không biết đến hoặc chưa hiểu đúng về chức năng và điều kiện hỗ trợ. Tỷ lệ giải ngân thực tế của quỹ vì thế còn ở mức thấp. Tính đến tháng 8 năm 2023, SMEDF giải ngân chưa đến 600 tỷ đồng kể từ khi thành lập. Xét về mức độ tiếp cận, chỉ có chưa đến 40 DNNVV nhận được hỗ trợ từ chương trình cho vay của quỹ (AMRO, 2024).
Chính sách bảo lãnh tín dụng qua QBLTD DNNVV cấp tỉnh
Ngày 20/12/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg về quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của QBLTD cho doanh nghiệp, là khung pháp lý đầu tiên cho phép thành lập các QBLTD trên toàn quốc. Sau đó, năm 2018, nhằm thay thế quy định cũ, QBLTD được thành lập theo Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 8/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của QBLTD cho DNNVV. Theo đó, quỹ hoạt động theo mô hình do UBND tỉnh thành lập, vốn ban đầu từ ngân sách địa phương (tối thiểu 30 tỷ đồng) và có thể gia tăng hàng năm nhờ đóng góp địa phương hoặc nguồn vốn bổ sung hợp pháp khác, hoạt động dưới dạng công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Để được cấp bảo lãnh tín dụng, doanh nghiệp phải thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 34/2018-NĐ-CP và thỏa mãn tất cả 5 điều kiện: (1) Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay; (2) Dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh được QBLTD thẩm định và quyết định bảo lãnh theo quy định; (3) Có phương án sản xuất, kinh doanh tại thời điểm QBLTD thẩm định để xem xét cấp bảo lãnh; (4) Tại thời điểm đề nghị bảo lãnh, doanh nghiệp không có các khoản nợ thuế từ 1 năm trở lên theo Luật Quản lý thuế và nợ xấu tại các tổ chức tín dụng. Nếu trường hợp nợ thuế do nguyên nhân khách quan, doanh nghiệp phải có xác nhận của cơ quan quản lý thuế trực tiếp; (5) Có biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh vay vốn theo quy định. QBLTD xem xét cấp bảo lãnh tín dụng cho DNNVV tối đa bằng 100% giá trị khoản vay (bao gồm cả vốn lưu động và vốn trung, dài hạn) tại tổ chức cho vay.
Kể từ khi hình thành, hoạt động của QBLTD đã đạt được một số kết quả nhất định. Tính đến hết tháng 9/2017 đã có 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập QBLTD. Tổng số vốn điều lệ của các QBLTD ước khoảng 1.579 tỷ đồng. Doanh số bảo lãnh của các QBLTD lũy kế từ năm 2002 đến ngày 30/9/2017 ước khoảng trên 4.126 tỷ đồng với khoảng trên 2.000 DNNVV được bảo lãnh vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Số dư bảo lãnh đến ngày 30/9/2017 của các QBLTD ước đạt trên 411 tỷ đồng, số trả nợ thay đạt khoảng 83 tỷ đồng (CIEM, 2018). Mặc dù vậy, nhìn chung, hoạt động của QBLTD ở cấp tỉnh vẫn còn chưa thực sự hiệu quả và đạt đúng kỳ vọng mục tiêu ban đầu. Số lượng QBLTD từ năm 2018 đến nay có xu hưởng giảm, đến năm 2021, cả nước chỉ còn 25 quỹ. Một số trường hợp quỹ phải giải thể như ở Đà Nẵng vào năm 2020, Quảng Nam và Phú Yên vào năm 2021. Về quy mô bảo lãnh, tính lũy kế giai đoạn 2002-2022, các quỹ đã bảo lãnh khoảng 4.200-4.800 tỷ đồng cho khoảng 2.450 DNNVV (bình quân mỗi năm bảo lãnh khoảng 210 tỷ đồng, hỗ trợ khoảng 100 doanh nghiệp). Song từ giai đoạn 2018–2022, mức độ khai thác càng yếu: đến cuối năm 2022, tổng dư nợ bảo lãnh chỉ hơn 171 tỷ đồng/năm, bình quân khoảng 34 tỷ đồng/năm, trong khi doanh số trả nợ thay khoảng 36 tỷ đồng/năm. Trong số 25 quỹ vẫn đang hoạt động tính đến năm 2022, chỉ có 11/24 quỹ có vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng (chiếm 40,7% so với tổng số QBLTD), cụ thể gồm: QBLTD TP. Hồ Chí Minh (232 tỷ đồng), Bình Dương (150 tỷ đồng), Cần Thơ (100 tỷ đồng), Đồng Tháp (100 tỷ đồng), Trà Vinh (100 tỷ đồng), An Giang (100 tỷ đồng), Thừa Thiên Huế (100 tỷ đồng)… Phần lớn còn lại có chỉ từ 4–10 tỷ đồng vốn, không đủ khả năng bảo lãnh lớn (Đinh Thị Phi Nga, 2025).
Một trong những vấn đề cốt lõi làm hạn chế hiệu quả của QBLTD cấp tỉnh tại Việt Nam chính là những khó khăn mang tính hệ thống và kéo dài trong quá trình vận hành.
Trước hết, vốn điều lệ của các quỹ còn quá thấp và thiếu sự đa dạng hóa nguồn lực tài chính. Phần lớn vốn của quỹ hiện nay được cấp từ ngân sách địa phương, trong khi các nguồn vốn khác như từ ngân hàng thương mại hoặc doanh nghiệp tư nhân hầu như không có. Nhiều quỹ chỉ có mức vốn điều lệ khiêm tốn từ 4-10 tỷ đồng, không đủ khả năng thực hiện các bảo lãnh tín dụng quy mô lớn, trong khi nhu cầu tiếp cận vốn của DNNVV lại rất lớn và đa dạng. Sự thiếu hụt này khiến các quỹ không thể đóng vai trò trung gian tài chính hiệu quả giữa doanh nghiệp và ngân hàng.
Thứ hai, tiêu chí bảo lãnh tín dụng còn quá khắt khe, gần như triệt tiêu mục tiêu hỗ trợ nhóm doanh nghiệp yếu thế – vốn là đối tượng chính của chương trình. Theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP, doanh nghiệp muốn được bảo lãnh phải có tài sản đảm bảo rõ ràng, trong khi đây lại là rào cản lớn nhất đối với DNNVV. Nhiều doanh nghiệp nhỏ hoặc siêu nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp, thường không có tài sản cố định đủ điều kiện thế chấp. Hơn nữa, hồ sơ xin bảo lãnh yêu cầu phải có phương án kinh doanh chi tiết, báo cáo tài chính chuẩn hóa, chứng minh khả năng trả nợ…, điều này khiến nhiều doanh nghiệp ngại ngần, không đủ năng lực hoàn thiện hoặc mất rất nhiều thời gian, công sức mà vẫn không được xét duyệt.
Thứ ba, sự yếu kém trong cơ chế vận hành và tổ chức bộ máy. Ở nhiều địa phương, QBLTD tồn tại như một tổ chức hình thức, chưa được chính quyền tỉnh thực sự quan tâm, hỗ trợ hoặc hiểu rõ vai trò. Cán bộ điều hành quỹ phần lớn là kiêm nhiệm, thiếu kiến thức chuyên môn về tài chính, quản trị rủi ro tín dụng. Không ít nơi, việc thẩm định, phê duyệt hồ sơ bảo lãnh còn mang tính hành chính, thiếu năng lực đánh giá độc lập và khách quan, khiến cho hoạt động của quỹ chỉ mang tính chất “giấy tờ”, không tạo ra tác động thực chất đối với doanh nghiệp.
Thứ tư, rủi ro tài chính và trách nhiệm cá nhân trong quá trình bảo lãnh. Vì nguồn vốn của quỹ hoàn toàn từ ngân sách nhà nước, các cán bộ, lãnh đạo địa phương thường chịu áp lực lớn trong việc bảo toàn vốn. Nếu có sai sót, nợ xấu hoặc thất thoát xảy ra, người ký duyệt có thể phải đối mặt với trách nhiệm pháp lý. Chính tâm lý lo ngại này khiến nhiều nơi e dè trong việc cấp bảo lãnh, làm chậm hoặc trì hoãn hồ sơ, làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp (AMRO, 2024). Quy trình phức tạp với nhiều loại giấy tờ và thủ tục hành chính khiến quá trình xin bảo lãnh trở nên cồng kềnh. Ngoài ra, đối với quỹ bảo lĩnh tín dụng địa phương, việc kích hoạt bảo lãnh cần sự phối hợp của nhiều cơ quan như UBND tỉnh, Sở Tài chính..., làm cho việc xử lý tài sản bảo đảm trở nên phức tạp, khiến ngân hàng thương mại ngần ngại chấp nhận bảo lãnh.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN HỖ TRỢ TÍN DỤNG CHO DNNVV
Từ những khó khăn đã được chỉ ra trong hoạt động của SMEDF và QBLTD, có thể thấy rằng việc nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng cho DNNVV không thể chỉ dừng lại ở việc tạo ra các cơ chế hỗ trợ về mặt chính sách, mà còn cần giải pháp mang tính hệ thống, linh hoạt và đổi mới, cả ở cấp trung ương và địa phương. Trong bối cảnh DNNVV chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam và đóng vai trò chủ đạo trong tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế, việc thiết kế lại các công cụ hỗ trợ tín dụng trở nên đặc biệt cấp thiết. Tác giả đưa ra một số đề xuất cụ thể sau:
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả và tính linh hoạt của SMEDF
Để khắc phục khó khăn, việc đầu tiên là cần mở rộng đối tượng thụ hưởng. Hiện nay, SMEDF chỉ ưu tiên các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hoặc doanh nghiệp nằm trong cụm ngành, chuỗi giá trị, khiến hàng loạt doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực truyền thống hoặc các hợp tác xã, hộ kinh doanh bị loại khỏi phạm vi hỗ trợ. Việc điều chỉnh tiêu chí theo hướng bao trùm hơn, nhưng vẫn đảm bảo chọn lọc, có thể giúp gia tăng số lượng doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi, đồng thời đảm bảo an toàn tín dụng.
Tiếp đến, cần cải thiện các điều kiện cho vay, trong đó quan trọng nhất là điều kiện tài sản bảo đảm. Đây là rào cản phổ biến và gây trở ngại lớn cho DNNVV. SMEDF nên áp dụng cơ chế linh hoạt hơn, như bảo lãnh tín chấp có điều kiện hoặc chấp nhận tài sản hình thành trong tương lai, kết hợp với đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp dựa trên dòng tiền, lịch sử tín dụng, năng lực quản lý. Hệ thống chấm điểm tín nhiệm DNNVV quốc gia nếu được triển khai sẽ là công cụ quan trọng hỗ trợ cho cơ chế này.
Ngoài ra, việc chỉ ủy thác cho một số ngân hàng thương mại khiến SMEDF không phát huy được tính cạnh tranh và năng lực huy động xã hội hóa. Cần mở rộng danh sách ngân hàng đối tác, đặc biệt là các ngân hàng có thế mạnh về DNNVV như VPBank, MB, HDBank…, đồng thời xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro giữa quỹ và ngân hàng nhằm khuyến khích họ đẩy mạnh cho vay.
Cuối cùng, quy trình xét duyệt và giải ngân cần được cải thiện theo hướng nhanh chóng, minh bạch, giảm bớt thủ tục hành chính. Có thể thiết kế quy trình “một cửa điện tử”, cho phép doanh nghiệp nộp hồ sơ và theo dõi tiến độ trực tuyến, hạn chế sự can thiệp chủ quan và giảm chi phí thời gian cho doanh nghiệp.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả của QBLTD cấp tỉnh
So với SMEDF, các QBLTD cấp tỉnh có ưu thế gần gũi hơn với doanh nghiệp địa phương và tiềm năng tiếp cận rộng hơn. Do vậy, thời gian tới cần chú trọng cải cách bộ máy và quy định vận hành. Bộ máy vận hành quỹ cần được chuyên nghiệp hóa. Việc tuyển dụng chuyên gia độc lập hoặc thiết lập hội đồng thẩm định có thành phần từ ngân hàng, hiệp hội doanh nghiệp sẽ giúp nâng cao tính khách quan và hiệu quả ra quyết định. Một điểm then chốt là cần điều chỉnh quy định về tài sản bảo đảm. Quy định yêu cầu doanh nghiệp phải có tài sản bảo đảm bằng 15% giá trị khoản vay khiến việc bảo lãnh mất đi ý nghĩa ban đầu. Thay vào đó, nên áp dụng phương pháp định giá rủi ro linh hoạt hơn, đồng thời sử dụng công cụ như bảo hiểm tín dụng hoặc bảo lãnh chéo từ các đối tác liên kết của doanh nghiệp.
Về mặt thông tin, cần xây dựng hệ thống công khai, minh bạch về danh sách các khoản bảo lãnh đã cấp, tỉ lệ giải ngân, tỉ lệ vỡ nợ và biện pháp xử lý, từ đó tăng cường niềm tin của ngân hàng và doanh nghiệp. Đồng thời, triển khai hệ thống bảo lãnh điện tử để giảm tải hành chính, rút ngắn thời gian thẩm định và tăng khả năng kiểm soát.
Ngoài ra, cần nghiên cứu phát triển mô hình quỹ bảo lãnh vùng liên tỉnh. Với những địa phương có quy mô doanh nghiệp nhỏ hoặc năng lực quản lý hạn chế, việc duy trì một quỹ riêng lẻ không hiệu quả. Thay vào đó, có thể gom nhóm các tỉnh có đặc điểm tương đồng thành lập quỹ vùng, vừa tận dụng được quy mô kinh tế, vừa chia sẻ kinh nghiệm và chi phí quản lý.
Thứ ba, nhóm các giải pháp chung
- Đa dạng hóa các công cụ hỗ trợ tín dụng: Bên cạnh các hình thức hỗ trợ truyền thống như cho vay trực tiếp hoặc bảo lãnh tín dụng, các quỹ hỗ trợ DNNVV cần được trao quyền sử dụng nhiều công cụ tài chính linh hoạt và hiện đại hơn. Cụ thể, có thể cho phép các quỹ được hỗ trợ tài chính cho các DNNVV thông qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh chia lợi nhuận hoặc chia sản phẩm, tạo điều kiện gắn kết lợi ích và phân chia rủi ro hợp lý giữa các bên. Ngoài ra, các quỹ cần có thể đầu tư vào vốn chủ sở hữu của DNNVV, thông qua việc mua cổ phần phổ thông hoặc cổ phần ưu đãi do doanh nghiệp phát hành. Đặc biệt, hai hình thức cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại được xem là phù hợp trong bối cảnh DNNVV có năng lực tài chính hạn chế nhưng cần tiếp cận nguồn vốn dài hạn. Các hình thức cổ phần này cho phép nhà đầu tư – trong trường hợp này là quỹ – có vị thế gần giống như chủ nợ có bảo đảm, từ đó giảm thiểu rủi ro và tăng tính hấp dẫn cho các khoản đầu tư vốn vào DNNVV. Việc đa dạng hóa các công cụ hỗ trợ như vậy không chỉ giúp gia tăng khả năng tiếp cận vốn mà còn tạo điều kiện để các quỹ trở thành đối tác chiến lược đồng hành cùng doanh nghiệp trong quá trình phát triển.
- Đa dạng hóa nguồn vốn: Đây là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Thay vì chỉ sử dụng vốn cấp phát từ ngân sách, cần tạo điều kiện để các quỹ được huy động thêm nguồn lực từ xã hội, đặc biệt là từ cộng đồng doanh nghiệp và công chúng. Cụ thể, nên cho phép các quỹ phát hành trái phiếu, chứng chỉ đầu tư hoặc các công cụ tài chính phù hợp khác. Điều này sẽ mở ra khả năng hình thành các quỹ hỗ trợ DNNVV có vốn góp từ khu vực tư nhân, góp phần tăng quy mô, tính linh hoạt và sự chủ động trong hoạt động hỗ trợ. Để khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư, cần có chính sách ưu đãi hợp lý như miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân từ lợi nhuận đầu tư, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp tài trợ vốn, hoặc giảm các loại thuế và phí liên quan.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác truyền thông, tư vấn và hướng dẫn doanh nghiệp. Nhiều DNNVV không biết đến hoặc không đủ năng lực lập hồ sơ để tiếp cận các chương trình hỗ trợ. Do đó, nên thành lập mạng lưới tư vấn tài chính công – tư (Public–Private Advisory Network) tại các tỉnh thành, với sự tham gia của hiệp hội doanh nghiệp, sở ban ngành liên quan, ngân hàng thương mại và các tổ chức tư vấn độc lập. Mạng lưới này sẽ đóng vai trò cầu nối, cung cấp thông tin, hỗ trợ kỹ thuật và hướng dẫn thực hành cho doanh nghiệp./.
Tài liệu tham khảo
1. AMRO (2024). AMRO Annual Consultation Report: Viet Nam 2023.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024). Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2024, Nxb Thống kê.
3. CIEM (2018). Chuyên đề số 15: Đổi mới phương thức hỗ trợ tín dụng cho DNNVV: Kinh nghiệm quốc tế và một số kiến nghị cho Việt Nam.
4. Đinh Thị Phi Nga (2025). Bảo lãnh tín dụng hỗ trợ các DNNVV tại Việt Nam – Thực trạng và khuyến nghị chính sách, truy cập từ https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/04/04/bao-lanh-tin-dung-ho-tro-cac-doanh-nghiep-nho-va-vua-tai-viet-nam-thuc-trang-va-khuyen-nghi-chinh-sach/.
5. Economica (2021). DNNVV và Hiệp định EVFTA, Tài liệu sử dụng cho loại hội nghị bàn tròn về hiệp định EVFTA, EVIPA và sự hồi phục kinh tế của Việt Nam sau đại dịch Covid-19.
6. Văn Tuấn (2025). Chi bộ Quỹ Phát triển DNNVV: Chi bộ trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu, truy cập từ https://thoibaotaichinhvietnam.vn/chi-bo-quy-phat-trien-doanh-nghiep-nho-va-vua-chi-bo-trong-sach-vung-manh-tieu-bieu-178284.html.
Ngày nhận bài: 20/4/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 10/6/2025; Ngày duyệt đăng: 25/6/2025 |