Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Sinh viên là nguồn lực lao động trẻ, có tri thức, nhiệt huyết, nhạy bén với xu thế và công nghệ mới, do đó, đây chính là đối tượng nguồn để chuyển từ ý tưởng sang hành động khởi nghiệp. Tuy nhiên, đối tượng sinh viên với hoạt động khởi nghiệp lại thường có những hạn chế do chịu tác động bởi nhiều yếu tố từ nội tại đến ngoại cảnh.

ThS. Lê Cẩm Tú, Email: lc.tu@hutech.edu.vn

Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành trên cơ sở khảo sát 230 sinh viên có ý định khởi nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 5 nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp xếp theo mức độ giảm dần là: Hỗ trợ khởi nghiệp; đam mê khởi nghiệp; sẵn sàng kinh doanh; giáo dục khởi nghiệp; tâm thế khởi nghiệp. Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu đưa ra một số hàm ý quản trị định hướng khởi nghiệp giúp các bạn trẻ có ý định khởi nghiệp trau dồi các kỹ năng cần thiết để khởi nghiệp thành công.

Từ khóa: ý định, khởi nghiệp, sinh viên, TP. Hồ Chí Minh

Summary

This study is based on a survey of 230 university students in Ho Chi Minh City to analyze the factors affecting their entrepreneurial intention. The results indicate that five factors influence entrepreneurial intention, in decreasing order of impact: Support for entrepreneurship; Entrepreneurial passion; Business readiness; Entrepreneurial education; Entrepreneurial mindset. Based on the analysis, the study proposes several policy implications to enhance entrepreneurial support and foster successful student entrepreneurship.

Keywords: intention, starting a business, students, Ho Chi Minh City,

GIỚI THIỆU

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ với định hướng hội nhập và đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp đã trở thành một xu thế tất yếu, nhận được sự quan tâm đặc biệt từ Chính phủ, các tổ chức xã hội và cộng đồng doanh nghiệp. TP. Hồ Chí Minh – trung tâm kinh tế, giáo dục và đổi mới sáng tạo hàng đầu cả nước – đang chứng kiến sự phát triển sôi động của hệ sinh thái khởi nghiệp, trong đó lực lượng sinh viên đóng vai trò tiềm năng và quan trọng.

Sinh viên là đối tượng trẻ, có tri thức, nhiệt huyết, nhạy bén với xu thế và công nghệ mới. Tuy nhiên, để chuyển từ ý tưởng sang hành động khởi nghiệp thực tế, sinh viên thường chịu tác động bởi nhiều yếu tố như: nhận thức về cơ hội kinh doanh, năng lực bản thân, môi trường hỗ trợ, rủi ro tài chính, văn hóa xã hội, hay thậm chí là ảnh hưởng từ gia đình và bạn bè. Việc nhận diện và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp sẽ giúp các trường đại học, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và cơ quan quản lý có cơ sở xây dựng chính sách, chương trình phù hợp nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong giới trẻ.

Thực tế cho thấy, dù phong trào khởi nghiệp trong sinh viên ngày càng lan rộng, nhưng tỷ lệ hiện thực hóa ý tưởng vẫn còn khiêm tốn. Điều này cho thấy tồn tại một khoảng cách giữa ý định khởi nghiệp và hành động thực tế, đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu sâu hơn về các yếu tố tác động đến ý định đó.

Xuất phát từ bối cảnh trên, nghiên cứu về “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh” được thực hiện nhằm phân tích, đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố cụ thể, từ đó đề xuất các giải pháp thiết thực giúp gia tăng tỷ lệ sinh viên khởi nghiệp thành công, đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế tri thức.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý luận

Quan niệm về ý định khởi nghiệp

Ý định là yếu tố được sử dụng để đánh giá khả năng thực hiện hành vi của cá nhân. Theo Ajzen (1991), ý định mang tính thúc đẩy và thể hiện nỗ lực của một cá nhân sẵn sàng thực hiện một hành vi cụ thể. Ý định sử dụng các ứng dụng di động là khả năng người dùng sử dụng thường xuyên và liên tục các ứng dụng trên thiết bị di động trong tương lai (Venkatesh và Davis, 2000).

Đi cùng với thời gian, khái niệm về khởi nghiệp cũng được thay đổi theo cách tư duy của các nhà nghiên cứu với cách tiếp cận khác nhau. Từ quan niệm ban đầu của Richard (1734), khởi nghiệp là sự tự làm chủ doanh nghiệp dưới bất kỳ hình thức nào. Đến đầu thế kỷ 21, quan niệm về khởi nghiệp hay tự làm chủ doanh nghiệp đã dần được làm rõ hơn, nó được Ủy ban cộng đồng Châu Âu (2003) định nghĩa: “khởi nghiệp là tư duy và quá trình tạo ra và phát triển hoạt động kinh tế bằng cách kết hợp sự chấp nhận rủi ro, sáng tạo hoặc sự cải tiến trong một tổ chức mới đang tồn tại”. Tương đồng về quan điểm, nghiên cứu của Oviatt và McDougall (2005) cho rằng, khởi nghiệp là sự khám phá, thực hiện, đánh giá và khai thác những cơ hội để tạo nên những sản phẩm và dịch vụ trong tương lai. Tuy nhiên, khi xem xét từ góc độ cá nhân, Albadri và Nasereddin (2019) định nghĩa, khởi nghiệp là năng lực và sự sẵn sàng để phát triển, tổ chức và quản lý một doanh nghiệp bằng cách chấp nhận rủi ro để tìm kiếm lợi nhuận.

Như vậy, ý định khởi nghiệp là một khái niệm then chốt trong lĩnh vực nghiên cứu về tinh thần doanh nhân, đặc biệt quan trọng khi tìm hiểu về hành vi khởi nghiệp trong giới trẻ và sinh viên. Theo đó, trong nghiên cứu này, ý định khởi nghiệp được hiểu là sự cam kết có ý thức của một cá nhân đối với việc bắt đầu một hoạt động kinh doanh mới trong tương lai gần, thể hiện qua mong muốn, động lực và kế hoạch hành động cụ thể để khởi sự doanh nghiệp (Krueger và Brazeal, 1994).

Nội hàm của ý định khởi nghiệp

Theo mô hình Hành vi có kế hoạch của Ajzen (1991), ý định là yếu tố trung tâm tiên đoán hành vi. Trong đó, ý định khởi nghiệp của sinh viên phản ánh mức độ mà sinh viên có ý muốn theo đuổi con đường tự tạo lập sự nghiệp thông qua việc thành lập doanh nghiệp riêng. Đây là giai đoạn tiền đề cho các hành vi khởi nghiệp thực tế, như: tìm ý tưởng, lập kế hoạch kinh doanh, tìm kiếm nguồn vốn, và triển khai dự án khởi nghiệp.

Ý định khởi nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm:

- Thái độ đối với hành vi khởi nghiệp: Cảm nhận tích cực hay tiêu cực của sinh viên đối với việc tự mình khởi sự kinh doanh.

- Chuẩn chủ quan: Ảnh hưởng từ gia đình, bạn bè, giảng viên, và môi trường xung quanh đến quyết định khởi nghiệp.

- Nhận thức về kiểm soát hành vi: Mức độ tự tin vào năng lực bản thân và khả năng vượt qua khó khăn trong quá trình khởi nghiệp.

Đối với sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh – một trung tâm kinh tế năng động và có hệ sinh thái khởi nghiệp phát triển – thì việc nghiên cứu ý định khởi nghiệp còn đặc biệt quan trọng để hiểu được tiềm năng, nhu cầu và những rào cản, mà thế hệ trẻ đang đối mặt khi khởi sự kinh doanh.

Mô hình nghiên cứu

Dựa trên lý thuyết Hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior – TPB) của Ajzen (1991) với quan niệm ý định hành vi là yếu tố trung tâm dự báo hành vi thực tế và ý định này chịu ảnh hưởng bởi 3 yếu tố chính gồm: thái độ đối với hành vi, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi; đồng thời, kế thừa kết quả các nghiên cứu đi trước của Liñán và Chen (2009), Shepherd và cộng sự (2009), Fayolle và Gailly (2015), tác giả đề xuất mô hình nhân tố ảnh hưởng đến Ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh như Hình.

Hình: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
Nguồn: đề xuất của tác giả

Các giả thuyết nghiên cứu được đưa ra như sau:

H1: Hỗ trợ khởi nghiệp có tác động tích cực (+) đến Ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh hệ sinh thái khởi nghiệp ngày càng phát triển, sinh viên rất cần đến các nguồn lực hỗ trợ từ nhà trường, tổ chức, chuyên gia và chính phủ để hình thành và hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh. Sự hỗ trợ có thể bao gồm: chương trình cố vấn khởi nghiệp, đào tạo kỹ năng kinh doanh, tài trợ vốn, các cuộc thi sáng tạo ý tưởng…. Khi sinh viên nhận được sự hỗ trợ này, họ sẽ cảm thấy tự tin hơn, có cảm giác được đồng hành và sẵn sàng dấn thân vào con đường khởi nghiệp. Theo nghiên cứu của Gurel và cộng sự (2010), mức độ hỗ trợ từ nhà trường và xã hội có liên quan mật thiết đến việc hình thành ý định khởi nghiệp ở sinh viên. Do đó, nghiên cứu giả thuyết rằng, mức độ hỗ trợ khởi nghiệp càng cao, thì ý định khởi nghiệp của sinh viên càng mạnh mẽ.

H2: Đam mê khởi nghiệp có tác động tích cực (+) đến Ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Đam mê là một trong những yếu tố nội tại có tác động mạnh mẽ đến hành vi khởi nghiệp. Theo Shepherd và cộng sự (2009), đam mê không chỉ thúc đẩy mong muốn khởi nghiệp, mà còn duy trì năng lượng và động lực trong suốt quá trình khởi sự kinh doanh. Sinh viên có đam mê khởi nghiệp thường có xu hướng tìm tòi, học hỏi, sáng tạo và nỗ lực vượt qua rào cản để đạt được mục tiêu của mình. Đam mê cũng giúp cá nhân kiên trì hơn trong môi trường kinh doanh đầy biến động và rủi ro. Do đó, nghiên cứu cho rằng, sinh viên càng có đam mê với hoạt động khởi nghiệp, thì càng có ý định cao trong việc bắt đầu kinh doanh riêng.

H3: Tâm thế khởi nghiệp có tác động tích cực (+) đến Ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Tâm thế khởi nghiệp phản ánh trạng thái tinh thần, thái độ và sự tự tin của sinh viên trước hành trình khởi nghiệp. Khi sinh viên có tâm thế tích cực, họ sẽ sẵn sàng đón nhận thách thức, kiên định với mục tiêu và ít bị lung lay trước khó khăn. Đây là yếu tố hỗ trợ mạnh mẽ trong việc duy trì ý định khởi nghiệp lâu dài. Vì vậy, nghiên cứu cho rằng, tâm thế khởi nghiệp càng tốt, thì ý định khởi nghiệp càng cao.

H5: Sự sẵn sàng kinh doanh có tác động tích cực (+) đến Ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Sự sẵn sàng kinh doanh thể hiện mức độ chuẩn bị của sinh viên về mặt kiến thức, kỹ năng, tâm lý và tài chính để thực hiện hoạt động khởi nghiệp. Khi sinh viên cảm thấy mình đã được trang bị đầy đủ, họ sẽ ít bị cản trở bởi nỗi sợ thất bại và có xu hướng hành động rõ ràng hơn. Theo Liñán và Chen (2009), sự tự tin vào khả năng khởi nghiệp là yếu tố quan trọng thúc đẩy ý định bắt đầu một doanh nghiệp. Theo đó, khi sinh viên cảm thấy họ đã sẵn sàng cả về năng lực lẫn tâm lý, thì ý định khởi nghiệp sẽ càng cao.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu đã sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng. Trong đó, nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua thu thập dữ liệu sơ cấp từ khảo sát 230 sinh viên có ý định khởi nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, bằng bảng câu hỏi thiết kế theo thang đo Likert 5 cấp độ và thực hiện chọn mẫu thuận tiện. Khảo sát được thực hiện từ tháng 10/2024 đến tháng 12/2024. Sau khi làm sạch và loại bỏ các mẫu không hợp lệ còn 209 mẫu hợp lệ đủ tiêu chí được đưa vào phân tích thông qua chương trình SPSS.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kiểm định độ tin cậy của thang đo

Nghiên cứu tiến hành kiểm định tất cả các thang đo của mô hình, kết quả cho thấy, hệ số Cronbach’s Alpha trong khoảng từ 0,702 ÷ 0, 920 (> 0,6) và có chỉ số tương quan biến tổng > 0,3 (Bảng 1), nên các thang đo này phù hợp để đưa vào phân tích nhân tố khám phá (EFA).

Bảng 1: Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha biến độc lập và biến phụ thuộc

STT

Thang đo

Ký hiệu

Số biến quan sát

Hệ số

Cronbach’s Alpha

Hệ số tương quan biến tổng nhỏ nhất

1

Ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Y

4

,920

,823

2

Hổ trợ khởi nghiệp

HTKN

4

,904

,757

3

Đam mê khởi nghiệp

ĐMKN

3

,762

,529

4

Tâm thế khởi nghiệp

TTKN

4

,707

,578

5

Giáo dục khởi nghiệp

GDKN

4

,753

,580

6

Sự sẵn sàng kinh doanh

SSKD

4

,702

,492

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Phân tích EFA

Sau khi loại bỏ 3 biến quan sát là: TTKN4, DMKN1, GDKN4 do có hệ số tải nhân tố 0,5. Kết quả ma trận xoay nhân tố cho thấy, 16 biến quan sát đưa vào được rút trích thành 5 nhân tố (Bảng 2).

Bảng 2: Kết quả phân tích ma trận xoay

Biến quan sát

Nhân tố

1

2

3

4

5

HTKN2

0,904

HTKN1

0,871

HTKN4

0,839

HTKN3

0,829

DMKN2

0,864

DMKN3

0,761

TTKN2

0,810

TTKN1

0,767

TTKN3

0,602

GDKN2

0,857

GDKN1

0,821

GDKN3

0,652

SSKD1

0,785

SSKD3

0,777

SSKD4

0,607

SSKD2

0,764

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu trên SPSS

Hệ số KMO đạt 0,797 > 0,5, đảm bảo tính thiết thực của phân tích; Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê Sig. = 0,000 50%, thể hiện sự biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bởi 69,487% biến độc lập.

Bảng 3: Hệ số KMO và kiểm định Bartlett cho các biến độc lập

Hệ số KMO cho các biến độc lập

,797

Kiểm định Bartlett

Giá trị Chi bình phương xấp xỉ

993,368

Df

123

Sig.

,000

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu trên SPSS

Phân tích hồi quy

Kết quả hồi quy tuyến tính cho thấy, các biến độc lập đưa vào mô hình đều phù hợp. Hệ số xác định R2 = 0,684 và hệ số R2 hiệu chỉnh = 0,679, mô hình nghiên cứu có độ thích hợp là 67,9%. Hay nói cách khác, 67,9% sự biến thiên trung bình của biến phụ thuộc Y có thể được giải thích bởi 5 biến độc lập trong mô hình.

Bảng 4: Kết quả phân tích hồi quy

Mô hình

Hệ số chưa chuẩn hóa

Hệ số chuẩn hóa

t

Sig.

B

Sai số chuẩn

Beta

1

(Hằng số)

,236

,278

3,874

,396

HTKN

,412

,042

,405

3,348

,000

GDKN

,044

,049

,041

3,487

,023

TTKN

,022

,058

,018

4,277

,000

SSKD

,075

,032

,101

2,379

,022

DMKN

,080

,052

,064

2,533

,021

a. Biến phụ thuộc: Y

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu trên SPSS

Theo kết quả Bảng 4, phương trình hồi quy tuyến tính được dự đoán theo các biến độc lập được viết như sau:

Y = 0,236 + 0,412*HTKN + 0,080*DMKN + 0,075*SSKD + 0,044*GDKN+ 0,022*TTKN

Như vậy, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, Hỗ trợ khởi nghiệp (HTKN), Đam mê khởi nghiệp (DMKN), Sẵn sàng khởi nghiệp (SSKN), Giáo dục khởi nghiệp (GDKN), Tâm thế khởi nghiệp (TTKN) có tác động cùng chiều (+) lên Ý định khởi nghiệp của sinh viên trên địa bàn TPHCM (Y). 5 giả thuyết đưa ra là H1, H2, H3, H4, H5 được chấp nhận do các nhân tố có tác động dương đến biến phụ thuộc Y với mức ý nghĩa Sig.

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Nghiên cứu đã xây dựng mô hình gồm 5 yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên tại Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm: Hỗ trợ khởi nghiệp, Đam mê khởi nghiệp, Sự sẵn sàng kinh doanh, Giáo dục khởi nghiệp và Tâm thế khởi nghiệp. Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính cho thấy, cả 5 nhân tố đều có tác động tích cực đến Ý định khởi nghiệp của sinh viên, trong đó Hỗ trợ khởi nghiệp là yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất (β = 0,412). Điều này cho thấy, khi sinh viên nhận được sự hỗ trợ thực tế từ nhà trường, tổ chức xã hội, gia đình và cộng đồng, kết hợp với niềm đam mê cá nhân và sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt kỹ năng – kiến thức, thì ý định khởi nghiệp sẽ có xu hướng gia tăng mạnh mẽ. Các nhân tố là Giáo dục khởi nghiệp và Tâm thế khởi nghiệp, tuy có hệ số thấp hơn nhưng vẫn đóng vai trò nhất định trong việc củng cố hành vi khởi nghiệp của sinh viên.

Từ những kết quả thu được trong nghiên cứu này, để thúc đẩy ý định khởi nghiệp của sinh viên hiện nay, thì các cơ sở giáo dục đại học, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và cơ quan quản lý giáo dục cần có những chính sách cụ thể và đồng bộ hơn, nhất là trong việc hỗ trợ sinh viên khơi dậy tinh thần và trang bị đủ hành trang khởi nghiệp. Đồng thời, từ mức độ ảnh hưởng của các nhân tố, tác giả đề xuất một số hàm ý quản trị như sau:

Thứ nhất, về Hỗ trợ khởi nghiệp. Theo phân tích Hỗ trợ khởi nghiệp là nhân tố có tác động mạnh nhất đến Ý định khởi nghiệp của sinh viên, nên cho thấy, các bạn trẻ rất cần một hệ sinh thái hỗ trợ đủ đầy để tự tin bắt đầu khởi nghiệp. Do đó, nhà trường cần tạo điều kiện để sinh viên được tiếp cận các mô hình khởi nghiệp thực tế, tổ chức các buổi chia sẻ, kết nối với các doanh nghiệp, quỹ đầu tư hoặc cố vấn khởi nghiệp. Ngoài ra, việc thành lập các trung tâm khởi nghiệp ngay trong trường học, nơi sinh viên được hướng dẫn từng bước hiện thực hóa ý tưởng cũng rất quan trọng. Khi có người đồng hành, các bạn sẽ không còn cảm thấy “một mình” trên con đường khởi nghiệp nữa.

Thứ hai, về Đam mê khởi nghiệp. Do, nhân tố Đam mê khởi nghiệp được đánh giá là động lực nội tại mạnh mẽ nhất thôi thúc sinh viên dấn thân, nên để khơi gợi đam mê ấy, thì môi trường học tập cần được làm mới liên tục, khuyến khích tư duy sáng tạo, đổi mới và cho phép sinh viên được thử - được sai - được học từ sai lầm. Bản thân những buổi nói chuyện từ các doanh nhân trẻ, hay việc lồng ghép những “câu chuyện thật” vào môn học, cũng có thể tạo cảm hứng rất lớn cho các bạn sinh viên.

Thứ ba, về Sự sẵn sàng kinh doanh. Dù có đam mê, nhưng nếu không đủ tự tin về kiến thức hay kỹ năng, sinh viên vẫn sẽ chùn bước. Vì vậy, chương trình đào tạo nên tăng cường các hoạt động thực hành, mô phỏng tình huống thực tế, như: viết kế hoạch kinh doanh, gọi vốn, phản biện trước nhà đầu tư... chỉ khi được “thử sức trong môi trường an toàn”, các bạn sinh viên mới thật sự trưởng thành và đủ sẵn sàng bước ra thương trường.

Thứ tư, về Giáo dục khởi nghiệp. Hoạt động giáo dục khởi nghiệp chính là phần gốc rễ giúp hình thành tư duy và thái độ khởi nghiệp bền vững. Do đó, giáo dục khởi nghiệp không nên chỉ dừng lại ở các lớp học lý thuyết hay môn học đơn lẻ, mà nên được lồng ghép linh hoạt vào nhiều học phần khác nhau, để sinh viên thấy khởi nghiệp không tách rời cuộc sống. Đồng thời, các cơ sở giáo dục cũng nên thường xuyên cập nhật chương trình học để bắt kịp xu hướng mới, thực tiễn hóa kiến thức nhiều hơn.

Thứ năm, về Tâm thế khởi nghiệp. Một điều có thể nhận thấy là nhiều sinh viên rất hào hứng với khởi nghiệp, nhưng khi gặp khó khăn, thì dễ nản và thậm chí bỏ cuộc. Vì thế, bên cạnh kiến thức và kỹ năng, nhà trường cần giúp sinh viên rèn luyện bản lĩnh, chấp nhận rủi ro và học cách đứng dậy sau thất bại. Việc tạo ra môi trường cởi mở để trải nghiệm thất bại mà không bị phán xét và được xem như bài học, là điều rất cần thiết để nuôi dưỡng một thế hệ khởi nghiệp bền bỉ, kiên trì và sẵn sàng đối mặt với thử thách./.

Tài liệu tham khảo

1. Ajzen, I. (1991), The theory of planned behavior, Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50(2), 179-211, https://doi.org/10.1016/0749-5978(91)90020-T.

2. Albadri, F. and Nasereddin, Y. (2019), Strategic thinking, planning, and management practice in the Arab world, Business Science Reference.

3. Autio, E., Keeley, R. H., Klofsten, M., Parker, G. G. C., Hay, M. (2001), Entrepreneurial intent among students in Scandinavia and in the USA, Enterprise and Innovation Management Studies, 2(2), 145–160, https://doi.org/10.1080/14632440110094632.

4. Doanh, D. C., and Bernat, T. (2019), Entrepreneurial self-efficacy and intention among Vietnamese students: A meta-analytic path analysis based on the theory of planned behavior, Procedia Computer Science, 159, 2447-2460, https://doi.org/10.1016/j.procs.2019.09.420.

5. Fayolle, A. and Gailly, B. (2015), The Impact of Entrepreneurship Education on Entrepreneurial Attitudes and Intention: Hysteresis and Persistence, Journal of Small Business Management, 53, 75-93, https://doi.org/10.1111/jsbm.12065

6. Gurel, E., Altinay, L., Daniele, R. (2010), Tourism students’ entrepreneurial intentions, Annals of Tourism Research, 37, 646-669. doi:10.1016/j.annals.2009.12.003

7. Krueger, N. F., Reilly, M. D., Carsrud, A. L. (2000), Competing models of entrepreneurial intentions, Journal of Business Venturing, 15(5-6), 411-432, https://doi.org/10.1016/S0883-9026(98)00033-0.

8. Liñán, F., and Chen, Y. W. (2009), Development and cross-cultural application of a specific instrument to measure entrepreneurial intentions. Entrepreneurship Theory and Practice, 33(3), 593–617, https://doi.org/10.1111/j.1540-6520.2009.00318.x

9. Nguyễn Văn Dũng (2022), Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên: Trường hợp Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

10. Nguyễn Thị Ngọc Trang (2021), Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, 19(6), 36-43.

11. Oviatt, B.M. and McDougall, P.P. (2005), Defining International Entrepreneurship and Modeling the Speed of Internationalization, Entrepreneurship: Theory & Practice, 9, 537-553, https://doi.org/10.1111/j.1540-6520.2005.00097.x.

12. Phan Thị Bích Ngọc, Trần Văn Hòa (2020), Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên Trường Đại học Trà Vinh, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 35, 83–87.

13. Trần Thị Kim Dung (2018), Khởi nghiệp và phát triển năng lực khởi nghiệp trong trường đại học, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, 68-72.

14. Richard (1734), Essai sur la Nature du Commerce en général, Traduit de l'Anglois, A Londres: chez Fletcher Gyles.

15. Vũ Hữu Thuyết (2020), Tác động của giáo dục khởi nghiệp đến ý định khởi nghiệp của sinh viên: Trường hợp các trường đại học phía Nam, Tạp chí Công thương, số 14, 150-155.

16. Venkatesh, V. and Davis, F.D. (2000), A Theoretical Extension of the Technology Acceptance Model: Four Longitudinal Field Studies, Management Science, 46, 186-204, https://doi.org/10.1287/mnsc.46.2.186.11926.

17. Gurel, E., Altinay, L., Daniele, R. (2010), Tourism students’ entrepreneurial intentions, Annals of Tourism Research, 37, 646-669, doi:10.1016/j.annals.2009.12.003.

Ngày nhận bài: 23/02/2025; Ngày phản biện: 12/3/2025; Ngày duyệt đăng: 18/3/2025

Link nội dung: https://kinhtevadulich.vn/cac-nhan-to-anh-huong-den-y-dinh-khoi-nghiep-cua-sinh-vien-tren-dia-ban-tp-ho-chi-minh-a320111.html