Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến thu hút vốn FDI vào Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam; đánh giá những thuận lợi và thách thức của chính sách mới, từ đó đưa ra các khuyến nghị giúp Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI trong kỷ nguyên mới.

ThS. Trần Việt Trang

Trường Đại học Hải Phòng

Email: Trangdhhp@gmail.com

Tóm tắt

Việc áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) tối thiểu 15% có thể làm suy giảm lợi thế của các ưu đãi thuế truyền thống, vốn là công cụ quan trọng trong chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam. Tuy nhiên, thuế tối thiểu toàn cầu (TTTC) cũng mở ra cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc chính sách đầu tư theo hướng bền vững hơn. Bài viết phân tích tác động của thuế TTTC đến thu hút vốn FDI vào Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ, sản xuất, tài chính và công nghiệp chiến lược; đánh giá những thuận lợi và thách thức của chính sách mới, từ đó đưa ra các khuyến nghị giúp Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI trong kỷ nguyên mới.

Từ khóa: thuế tối thiểu toàn cầu, vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam

Summary

Applying a minimum corporate income tax rate of 15% may reduce the advantages of traditional tax incentives, which are crucial tools in Vietnam's strategy to attract foreign direct investment (FDI). However, the global minimum tax also opens opportunities for Vietnam to restructure its investment policy in a more sustainable direction. The article analyzes the impact of the global minimum on attracting FDI into Vietnam, especially in the fields of technology, manufacturing, finance, and strategic industries; assesses the advantages and challenges of the new policy, thereby making recommendations to help Vietnam continue to be an attractive destination for FDI inflows in the new era.

Keywords: global minimum tax, foreign investment, Vietnam

GIỚI THIỆU

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhiều tập đoàn đa quốc gia đã tận dụng chính sách thuế thấp tại các quốc gia để tối ưu hóa lợi nhuận, dẫn đến tình trạng xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS). Để đối phó với vấn đề này, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cùng Nhóm G20 đã thúc đẩy việc triển khai thuế TTTC, nhằm đảm bảo các doanh nghiệp lớn phải nộp ít nhất 15% thuế TNDN bất kể hoạt động ở đâu. Đến nay, hơn 140 quốc gia đã cam kết thực hiện thuế TTTC từ năm 2024, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quản trị thuế quốc tế.

Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở cao, với khu vực FDI đóng góp khoảng 20% GDP và chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các doanh nghiệp FDI đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp chế biến, công nghệ cao và năng lượng, nhờ vào hệ thống ưu đãi thuế TNDN hấp dẫn, bao gồm thuế suất thấp (5%-10%), miễn giảm thuế nhiều năm. Tuy nhiên, khi thuế TTTC có hiệu lực, các ưu đãi này sẽ bị vô hiệu hóa đối với các tập đoàn đa quốc gia, tạo ra những thách thức lớn trong việc duy trì khả năng thu hút FDI của Việt Nam. Tuy nhiên, việc áp dụng thuế TTTC cũng mở ra cơ hội mới cho Việt Nam. Chính phủ đã chủ động thông qua thuế bổ sung 15% từ năm 2024 để đảm bảo nguồn thu không bị thất thoát ra nước ngoài. Đồng thời, Việt Nam cũng đang điều chỉnh chính sách đầu tư, chuyển từ ưu đãi thuế sang các biện pháp hỗ trợ phi thuế. Do đó, việc nghiên cứu tác động của thuế TTTC đến thu hút FDI vào Việt Nam là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ TTTC ĐẾN CHÍNH SÁCH KINH TẾ VIỆT NAM

Chính sách ưu đãi FDI trước thuế TTTC

Trước khi thuế TTTC được đề cập, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống ưu đãi thuế đa dạng nhằm thu hút các dự án FDI. Các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có thể hưởng nhiều ưu đãi TNDN, bao gồm: (i) Thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn đến 15 năm (hoặc 20% trong 10 năm) cho dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích; (ii) Miễn, giảm thuế TNDN có thời hạn (miễn thuế đến 4 năm, giảm 50% trong 5-9 năm tiếp theo); (iii) Cho phép chuyển lỗ sang các năm sau (tối đa 5 năm); (iv) Miễn thuế đối với lợi nhuận chuyển ra nước ngoài; (v) Hoàn thuế TNDN đối với phần lợi nhuận tái đầu tư; (vi) Áp dụng khấu hao nhanh tài sản cố định; cùng nhiều ưu đãi thuế khác như: giảm tiền thuê đất, tín dụng thuế... Nhờ các ưu đãi này, mức thuế TNDN thực tế mà nhiều doanh nghiệp FDI phải nộp thấp hơn nhiều so với thuế suất phổ thông 20%. Thống kê cho thấy, thuế suất thực tế bình quân của khối FDI chỉ khoảng 12,3%, thậm chí một số tập đoàn lớn chỉ chịu mức thuế hiệu dụng 2,75%-5,95%. Rõ ràng, ưu đãi thuế TNDN là công cụ chính sách quan trọng giúp Việt Nam nâng cao tính cạnh tranh trong việc thu hút các “đại bàng” FDI trong những thập kỷ qua.

Tác động của thuế TTTC đến khung chính sách hiện hành

Việc áp dụng thuế tối thiểu 15% ở phạm vi toàn cầu tạo ra thách thức chưa từng có tiền lệ đối với mô hình ưu đãi đầu tư của Việt Nam. Các ưu đãi thuế kể trên sẽ gần như bị vô hiệu đối với những doanh nghiệp thuộc diện chịu thuế TTTC. Cụ thể, khi một tập đoàn đa quốc gia lớn đầu tư vào Việt Nam và được hưởng thuế suất ưu đãi thấp (5%-10%), thì theo cơ chế TTTC, công ty mẹ của tập đoàn đó (ở nước đã áp thuế TTTC) sẽ phải nộp phần thuế bổ sung để nâng tổng mức thuế lên 15%. Điều này đồng nghĩa với việc khoản lợi ích do ưu đãi thuế ở Việt Nam mang lại sẽ không còn, bởi số thuế được miễn tại Việt Nam sẽ bị thu ở quốc gia khác. Nếu Việt Nam không áp dụng thuế TTTC, các nước nơi công ty mẹ đặt trụ sở có quyền thu phần chênh lệch thuế này, dẫn tới thất thu ngân sách cho Việt Nam và làm giảm hiệu quả của chính sách ưu đãi hiện hành. Do đó, lợi thế cạnh tranh dựa vào ưu đãi thuế của Việt Nam trong thu hút FDI sẽ bị suy giảm đáng kể. Nhiều “ông lớn” FDI từng xem ưu đãi thuế là yếu tố hấp dẫn chính có thể sẽ đánh giá lại môi trường đầu tư của Việt Nam trong tương lai gần khi yếu tố này không còn.

Phản ứng của Chính phủ Việt Nam

Nhận thức rõ thách thức trên, Chính phủ và Quốc hội Việt Nam đã nhanh chóng hành động để điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Ngay từ năm 2017, Việt Nam đã tham gia diễn đàn hợp tác BEPS của OECD và theo sát diễn biến xây dựng thuế TTTC trên thế giới. Trong năm 2023, Việt Nam thành lập tổ công tác liên ngành về trụ cột 2 (thuế TTTC) và xây dựng các phương án ứng phó, tận dụng cơ hội từ cải cách thuế này. Đỉnh điểm, tại kỳ họp cuối năm 2023, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết áp dụng thuế TNDN bổ sung 15% từ năm 2024 đối với các doanh nghiệp thuộc phạm vi thuế TTTC. Theo Nghị quyết, khoảng 122 tập đoàn nước ngoài đầu tư tại Việt Nam sẽ nằm trong diện điều chỉnh của chính sách mới. Việc thông qua nhanh chóng này nhằm đảm bảo Việt Nam giành quyền đánh thuế phần ưu đãi bị mất thay vì để nước khác thu hưởng, đồng thời thể hiện cam kết của Việt Nam trong chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu.

Bên cạnh việc ban hành mức thuế bổ sung 15%, Chính phủ cũng chủ động chuẩn bị các biện pháp điều chỉnh chính sách ưu đãi đầu tư. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị Chính phủ đánh giá tổng thể hệ thống ưu đãi thuế hiện hành và khẩn trương xây dựng dự án sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN, cùng phương án điều chỉnh thuế suất và ưu đãi cho phù hợp với bối cảnh mới. Nhiều đại biểu Quốc hội bày tỏ lo ngại về việc thuế TTTC có thể ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, do đó, kiến nghị Chính phủ sớm có các chính sách ưu đãi thay thế ngoài thuế để tiếp tục duy trì sức hấp dẫn của môi trường đầu tư khi thực thi thuế TTTC. Một số ý kiến đề xuất sử dụng khoản thu tăng thêm từ thuế TTTC để tài trợ các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp FDI (như cách Thái Lan dự kiến thực hiện) nhằm cải thiện môi trường đầu tư và trấn an nhà đầu tư trước thay đổi lớn này.

Tiếp thu các kiến nghị, cơ quan lập pháp và hành pháp đã thống nhất định hướng điều chỉnh chính sách. Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội cho rằng, cần xây dựng ngay các chính sách hỗ trợ đầu tư mới thay thế cho ưu đãi thuế sẽ không còn hiệu lực, nhằm giúp nhà đầu tư yên tâm gắn bó với môi trường đầu tư Việt Nam. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội về đề án thí điểm chính sách hỗ trợ đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao, đề xuất thành lập một quỹ sử dụng nguồn thu từ thuế TTTC để hỗ trợ nhà đầu tư. Quốc hội sau đó đã cho phép thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư từ nguồn thu thuế TTTC (và các nguồn hợp pháp khác) nhằm ổn định môi trường đầu tư, khuyến khích thu hút nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp trong nước ở một số lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư. Đây được xem là giải pháp quan trọng để bù đắp cho các ưu đãi thuế sẽ mất đi, chuyển đổi sang hình thức hỗ trợ trực tiếp bằng ngân sách, giữ chân các dự án FDI lớn.

Không chỉ dừng ở việc bổ sung thuế và lập quỹ hỗ trợ, Việt Nam còn định hướng cải tổ toàn diện chính sách khuyến khích đầu tư. Bộ Tài chính cho biết, trong trung hạn sẽ kiến nghị sửa các quy định ưu đãi thuế để bảo vệ nguồn thu, đồng thời ban hành các ưu đãi kiểu mới, hỗ trợ chi phí cho nhà đầu tư (như: chi phí đào tạo lao động, chi phí chuyển đổi xanh, bảo vệ môi trường) thay vì ưu đãi trực tiếp trên thu nhập chịu thuế. Những biện pháp này nhằm tiếp tục tạo thuận lợi cho doanh nghiệp FDI hoạt động và đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế. Xu hướng chuyển từ ưu đãi thuế sang hỗ trợ phi thuế cũng phù hợp với kinh nghiệm quốc tế: một số quốc gia Đông Nam Á có điều kiện tương đồng Việt Nam, như: Malaysia, Indonesia, Thái Lan..,. đang rà soát lại chế độ ưu đãi thuế và cân nhắc các biện pháp mới để giữ chân nhà đầu tư khi thuế TTTC có hiệu lực. Tóm lại, thuế TTTC đang thúc đẩy Việt Nam điều chỉnh chính sách kinh tế theo hướng giảm dần lệ thuộc vào ưu đãi thuế, thay bằng các giải pháp nâng cao nội lực và hỗ trợ đầu tư một cách minh bạch, hiệu quả hơn.

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ TTTC ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM

Thuế TTTC không chỉ ảnh hưởng đến khung chính sách vĩ mô, mà còn tác động trực tiếp tới tính toán chi phí và lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Phản ứng của doanh nghiệp FDI có thể khác nhau tùy thuộc lĩnh vực hoạt động, quy mô và mức độ hưởng ưu đãi thuế trước đây. Dưới đây là phân tích theo một số nhóm ngành trọng yếu:

Ngành công nghệ cao (điện tử, công nghệ thông tin…)

Đây là nhóm có nhiều tập đoàn đa quốc gia lớn đã đầu tư mạnh vào Việt Nam, tiêu biểu như Samsung, Intel, LG..., thường được hưởng ưu đãi thuế TNDN tối đa (thuế suất 10%, miễn thuế 4 năm + giảm 50% trong 9 năm). Việc áp dụng thuế TTTC 15% khiến những ưu đãi thuế này không còn tác dụng đối với các tập đoàn trên. Nguyên nhân là các công ty đang hưởng ưu đãi sẽ phải nộp bổ sung thuế đến mức 15% tại quốc gia có công ty mẹ, dẫn tới phần lợi nhuận có được tại Việt Nam bị cơ quan thuế nước khác thu về thay vì doanh nghiệp được hưởng. Khoản thuế bổ sung này tạo gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp, ảnh hưởng tới kế hoạch tài chính và chiến lược kinh doanh, đồng thời làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất tại Việt Nam do chi phí tăng lên. Trước tình hình đó, lãnh đạo Samsung đã kêu gọi Chính phủ Việt Nam sớm có các quyết sách ứng phó với thuế TTTC để duy trì hấp dẫn đầu tư. Như vậy, đối với lĩnh vực công nghệ cao, thuế TTTC có thể khiến một số tập đoàn cân nhắc chậm lại hoặc thu hẹp kế hoạch mở rộng đầu tư tại Việt Nam nếu không có các biện pháp hỗ trợ khác bù đắp lợi ích ưu đãi đã mất.

Ngành sản xuất chế tạo (công nghiệp, lắp ráp, dệt may)

Khối sản xuất chế tạo chiếm tỷ trọng lớn trong FDI tại Việt Nam, đặc biệt là các dự án tại các khu công nghiệp, khu kinh tế chuyên biệt. Nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực này có quy mô lớn và thuộc các tập đoàn toàn cầu, nên nằm trong diện thuế TTTC. Theo thống kê của Bộ Tài chính, hiện có khoảng 335 dự án FDI quy mô trên 100 triệu USD trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tại các khu kinh tế, khu công nghiệp đang được hưởng thuế TNDN ưu đãi dưới 15%. Các doanh nghiệp này trải rộng trong các ngành, như: điện tử, sản xuất linh kiện, ô tô, dệt may, da giày... vốn đóng góp lớn cho xuất khẩu. Khi thuế TTTC áp dụng, những công ty này sẽ chịu tác động trực tiếp như phải nộp thêm thuế, làm chi phí hoạt động tăng lên và lợi nhuận ròng tại Việt Nam giảm xuống. Trong ngắn hạn, một số dự án đầu tư mới có thể tạm hoãn hoặc điều chỉnh quy mô để các tập đoàn đánh giá lại hiệu quả sau thuế. Nhóm doanh nghiệp đang hoạt động có thể sẽ đề xuất với Chính phủ các hỗ trợ khác ngoài thuế (hỗ trợ hạ tầng khu công nghiệp, đào tạo lao động, cải cách thủ tục) nhằm giảm chi phí kinh doanh, bù đắp cho ưu đãi thuế không còn.

Dù chịu tác động tăng chi phí, song khả năng dịch chuyển dòng vốn sản xuất khỏi Việt Nam ngay lập tức là không cao, bởi các nhà đầu tư cần xét đến nhiều yếu tố. Nếu rời Việt Nam sang nước khác, nhưng vẫn thuộc tập đoàn đa quốc gia lớn, thì họ vẫn phải nộp thuế bổ sung 15% tại nước mẹ, trừ phi nước tiếp nhận đầu tư không tham gia thuế TTTC. Tuy nhiên, đa số các quốc gia đầu tư chính đều đã tham gia (Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, các nước EU...), nên việc chuyển địa điểm chỉ để né thuế không đem lại lợi ích rõ rệt. Thay vào đó, nhà đầu tư ngành sản xuất sẽ tập trung so sánh chi phí lao động, chi phí logistics, chất lượng hạ tầng, mức độ thuận tiện thủ tục giữa các quốc gia. Đây là lý do Việt Nam đang nỗ lực cải thiện các yếu tố này để giữ chân dòng vốn sản xuất.

Ngành tài chính - ngân hàng

Khác với sản xuất, lĩnh vực tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ tài chính) thường ít được hưởng ưu đãi thuế TNDN tại Việt Nam. Các ngân hàng và công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động ở Việt Nam hầu hết đóng thuế với thuế suất thông thường 20% (thậm chí ngành ngân hàng có thời điểm chịu thuế 25%), do đó đã cao hơn ngưỡng 15%. Vì vậy, thuế TTTC được đánh giá không ảnh hưởng đáng kể đến nhóm này về khía cạnh nghĩa vụ thuế - rất ít ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nằm trong diện được ưu đãi thuế TNDN dưới 15%. Quyết định đầu tư của các doanh nghiệp tài chính phụ thuộc vào quy mô thị trường, tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự ổn định chính sách vĩ mô nhiều hơn là ưu đãi thuế. Do đó, việc thực thi thuế TTTC không làm thay đổi đáng kể sức hút của thị trường tài chính Việt Nam. Thậm chí, việc Việt Nam áp dụng chuẩn mực thuế mới có thể tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn giữa ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài, giúp các nhà đầu tư tài chính yên tâm về tính minh bạch và bền vững của môi trường đầu tư.

Các ngành chiến lược khác

Nhiều lĩnh vực chiến lược như: năng lượng (điện khí LNG, điện tái tạo), hạ tầng giao thông, dịch vụ logistics, công nghiệp công nghệ cao mới (chíp bán dẫn, dược phẩm) cũng thu hút các dự án FDI lớn. Các dự án này trong quá khứ thường nhận được ưu đãi thuế hoặc ưu đãi đầu tư đặc biệt do tầm quan trọng chiến lược. Với thuế TTTC, nếu nhà đầu tư thuộc tập đoàn toàn cầu doanh thu trên 750 triệu Euro, thì những ưu đãi thuế đặc thù cũng sẽ bị triệt tiêu tương tự như các ngành khác. Thách thức đặt ra là làm sao tiếp tục thu hút các dự án trọng điểm trong các ngành chiến lược khi lợi thế về thuế giảm đi. Ở góc độ nhà đầu tư, họ sẽ cân nhắc kỹ hơn về tỷ suất lợi nhuận sau thuế tại Việt Nam, có thể đòi hỏi Chính phủ tăng cường các ưu đãi phi thuế (như đảm bảo mua điện dài hạn với giá hấp dẫn cho dự án năng lượng, hoặc hỗ trợ thủ tục và mặt bằng cho dự án hạ tầng...). Mặt tích cực là các nhà đầu tư chiến lược có tầm nhìn dài hạn thường đề cao sự ổn định chính sách và tiềm năng thị trường. Nếu Việt Nam cam kết được các yếu tố này, cùng với việc thiết kế gói ưu đãi thay thế hợp lý, thì những ngành chiến lược vẫn sẽ thu hút được dòng vốn chất lượng cao. Chẳng hạn, thuế TTTC không ảnh hưởng đến quyết định của nhiều tập đoàn năng lượng tái tạo châu Âu vốn quan tâm hơn đến cam kết phát triển bền vững và nhu cầu thị trường điện của Việt Nam. Tương tự, các dự án hạ tầng giao thông lớn theo hình thức đối tác công tư (PPP) sẽ dựa trên khung pháp lý ổn định và bảo đảm lợi nhuận do Chính phủ cam kết, hơn là ưu đãi thuế TNDN.

Dịch chuyển dòng vốn và xu hướng đầu tư mới

Mối quan tâm lớn của cộng đồng doanh nghiệp lẫn các nhà quản lý là liệu thuế TTTC có khiến dòng vốn FDI dịch chuyển khỏi Việt Nam sang các nước khác hay không? Trong ngắn hạn, có thể có hiện tượng một số tập đoàn trì hoãn quyết định đầu tư để chờ đợi quy định rõ ràng và chính sách hỗ trợ của Việt Nam. Tuy nhiên, về tổng thể, nguy cơ dòng vốn FDI rút khỏi Việt Nam hàng loạt là thấp. Lý do là thuế TTTC là sáng kiến toàn cầu, hầu hết các quốc gia phát triển và nhiều nước trong khu vực đều cam kết thực thi từ năm 2024. Các nước như: EU, Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Australia..., đã ban hành luật áp thuế tối thiểu 15% từ năm 2024. Do đó, giới đầu tư không thể đơn thuần chuyển vốn sang một quốc gia khác để tiếp tục được thuế ưu đãi 0%-10% như trước, vì lợi ích đó sẽ bị trung hòa bởi thuế bổ sung tại nước họ đặt trụ sở. Chỉ một số rất ít quốc gia có thể chưa tham gia ngay (như: một số thiên đường thuế nhỏ, hoặc tạm thời Trung Quốc trì hoãn thực thi vì lo ngại cạnh tranh FDI), nhưng điều này không đủ để hình thành một xu hướng chuyển dịch vốn lớn trên thế giới. Với Việt Nam, nếu không áp dụng thuế TTTC, thì cũng không giữ được lợi thế, bởi hơn 70 doanh nghiệp FDI lớn tại Việt Nam sẽ phải nộp thuế bổ sung khoảng 12.000 tỷ đồng tại các nước khác trong năm 2024 thay vì tại Việt Nam. Nói cách khác, việc “ở lại” Việt Nam hay chuyển sang nước A, B không tạo khác biệt về nghĩa vụ thuế tối thiểu của nhà đầu tư, miễn là tập đoàn của họ chịu sự điều chỉnh của thuế TTTC toàn cầu.

Thực tế, các yếu tố cốt lõi quyết định dòng vốn FDI sẽ quay về các giá trị cơ bản như: chi phí sản xuất cạnh tranh, thị trường tiêu thụ tiềm năng, môi trường chính trị - xã hội ổn định và khả năng liên kết chuỗi cung ứng. Việt Nam tiếp tục có nhiều lợi thế ở những mặt này. Các chuyên gia kinh tế nhận định chính những yếu tố này sẽ giữ chân dòng vốn FDI ở lại Việt Nam trong dài hạn, bất chấp sự thay đổi về ưu đãi thuế. Báo cáo của Công ty chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) cho thấy, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI nhờ lợi thế nhân công giá rẻ, vị trí thuận lợi, nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) và môi trường chính trị ổn định. Vốn FDI kỳ vọng tiếp tục là động lực tăng trưởng kinh tế những năm tới, đặc biệt thúc đẩy sự phát triển của phân khúc bất động sản công nghiệp khi các doanh nghiệp nước ngoài mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Như vậy, thay vì rút lui, dòng vốn FDI có thể sẽ tái cơ cấu theo hướng chọn lọc hơn: tập trung vào những dự án mang lại giá trị gia tăng cao, khai thác lợi thế thị trường và nguồn nhân lực của Việt Nam, đồng thời đòi hỏi Việt Nam phải cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư để đáp ứng yêu cầu mới của họ.

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

Việc áp dụng thuế TTTC đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam khi lợi thế ưu đãi thuế bị suy giảm. Tuy nhiên, nếu có chiến lược phù hợp, Việt Nam có thể biến thách thức này thành cơ hội để nâng cao chất lượng dòng vốn FDI, cải thiện môi trường đầu tư và tăng cường tính minh bạch. Mặc dù có những tác động ngắn hạn, song thuế TTTC sẽ thúc đẩy Việt Nam tái cấu trúc chính sách thu hút đầu tư theo hướng bền vững hơn, giảm phụ thuộc vào ưu đãi thuế và tập trung vào các yếu tố cạnh tranh dài hạn như: hạ tầng, nguồn nhân lực và công nghệ.

Theo đó, một số khuyến nghị được đề xuất như sau:

Một là, hoàn thiện khung pháp lý về thuế TTTC: Ban hành hướng dẫn rõ ràng về thuế suất bổ sung 15% để đảm bảo tính minh bạch và giúp doanh nghiệp FDI dễ dàng tuân thủ.

Hai là, chuyển đổi ưu đãi đầu tư từ thuế sang hỗ trợ phi thuế: Tăng cường các biện pháp như: miễn giảm tiền thuê đất, hỗ trợ chi phí nghiên cứu & phát triển (R&D) và trợ cấp đào tạo nhân lực.

Ba là, phát huy hiệu quả Quỹ hỗ trợ đầu tư từ thuế TTTC: Hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và công nghiệp trọng điểm để duy trì lợi thế cạnh tranh.

Bốn là, cải thiện môi trường kinh doanh: Đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm chi phí logistics, nâng cấp hạ tầng giao thông và năng lượng để tăng tính hấp dẫn với nhà đầu tư.

Năm là, tăng cường đối thoại với doanh nghiệp FDI: Lắng nghe phản hồi, giải quyết kịp thời các vướng mắc và điều chỉnh chính sách linh hoạt để giữ chân các tập đoàn đa quốc gia.

Sáu là, thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước: Phát triển chuỗi cung ứng nội địa để tăng tỷ lệ nội địa hóa, giúp doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Có thể thấy, thuế TTTC là bước thay đổi mang tính cấu trúc trong luật chơi FDI, đòi hỏi Việt Nam phải thích ứng nhanh chóng. Những lợi thế thuế quan trọng trong quá khứ sẽ không còn, nhưng nếu Việt Nam cải cách thành công dựa trên các khuyến nghị nêu trên, chúng ta có thể xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn dựa trên các yếu tố nền tảng vững chắc chứ không phải ưu đãi nhất thời. Qua phân tích và các dẫn chứng thực tế, có thể tin tưởng rằng, Việt Nam vẫn duy trì sức hút FDI mạnh mẽ trong kỷ nguyên thuế TTTC, thậm chí biến thách thức này thành động lực để hoàn thiện hơn cấu trúc kinh tế. Việc chủ động áp dụng thuế TTTC, đi kèm với điều chỉnh chính sách phù hợp, sẽ giúp Việt Nam nâng cao uy tín quốc tế, tăng thu ngân sách, đồng thời thúc đẩy nâng cấp môi trường đầu tư theo hướng minh bạch, bình đẳng và hiệu quả hơn. Đây là tiền đề quan trọng để Việt Nam vừa thu hút được dòng vốn FDI chất lượng cao, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia trong chặng đường phát triển tiếp theo./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Gia Cư (2022), Khu vực FDI chiếm 72% tổng giá trị xuất khẩu, nhưng hiệu ứng lan tỏa thấp, truy cập từ https://thoibaotaichinhvietnam.vn/khu-vuc-fdi-chiem-72-tong-gia-tri-xuat-khau-nhung-hieu-ung-lan-toa-thap-106903.html.

2. Hoài Anh (2023), 122 tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chịu ảnh hưởng thuế TTTC, truy cập từ https://haiquanonline.com.vn/122-tap-doan-nuoc-ngoai-dau-tu-vao-viet-nam-chiu-anh-huong-thue-toi-thieu-toan-cau-180864.html.

3. Lan Hương (2023), ĐBQH Hoàng Văn Cường: Thông qua Nghị quyết về thuế TTTC là hành động phù hợp. đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam, truy cập từ https://quochoi.vn/hoatdongdbqh/Pages/tin-hoat-dong-dai-bieu.aspx?ItemID=82687.

4. Minh Nhật (2023). Việt Nam sẽ áp thuế TTTC 15% với doanh nghiệp đa quốc gia từ 1/1/2024, truy cập từ https://thitruongtaichinhtiente.vn/viet-nam-se-ap-thue-toi-thieu-toan-cau-15-voi-doanh-nghiep-da-quoc-gia-tu-1-1-2024-52664.html.

5. Nguyễn Thường Lạng (2023). Thuế TTTC 15% tạo cơ hội mới hấp dẫn FDI bằng phi thuế, truy cập từ https://vov.vn/kinh-te/thue-toi-thieu-toan-cau-15-tao-co-hoi-moi-hap-dan-fdi-bang-phi-thue post1035741.vov.

6. Phương Ánh (2023), CEO Samsung: “Miễn, giảm thuế cho FDI của Việt Nam sắp hết tác dụng”, truy cập từ https://vnexpress.net/ceo-samsung-mien-giam-thue-cho-fdi-cua-viet-nam-sap-het-tac-dung-4595070.html.

7. Trâm Anh (2023), Dự kiến ban hành chính sách thuế TTTC 15% trong năm 2023, truy cập từ https://vneconomy.vn/du-kien-ban-hanh-chinh-sach-thue-toi-thieu-toan-cau-15-trong-nam-2023.htm.

8. Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI (2023), Sau áp dụng thuế TTTC 15%, Việt Nam vẫn sẽ là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI, truy cập từ https://trungtamwto.vn/tin-tuc/25099-sau-ap-dung-thue-toi-thieu-toan-cau-15-viet-nam-van-se-la-diem-den-hap-dan-cua-dong-von-fdi.

9. Trung tâm WTO và Hội nhập (2023), Thuế TTTC - Tác động đối với Việt Nam, truy cập từ https://trungtamwto.vn/file/22595/3.-thue-toi-thieu-toan-cau-va-tac-dong-voi-vn.pdf.

Ngày nhận bài: 05/3/2025; Ngày phản biện: 08/3/2025; Ngày duyệt đăng: 10/3/2025

Link nội dung: https://kinhtevadulich.vn/tac-dong-cua-thue-toi-thieu-toan-cau-den-thu-hut-von-fdi-vao-viet-nam-a319893.html