TS. Lữ Bá Văn
Giảng viên khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
Email: lubavan@yahoo.com
Tóm tắt
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích định lượng nhằm đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi của tổ chức, cá nhân hướng tới kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Kết quả nghiên cứu cho thây, các nhân tố, gồm: Nhận thức Thái độ; Nhận thức Chuẩn mực chủ quan; Nhận thức Kiểm soát hành vi; Nhận thức Ý định; Nhận thức Áp lực; Nhận thức Rào cản; Nhận thức Hỗ trợ đến Hành vi của tổ chức, cá nhân hướng tới kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
Từ khóa: hành vi của tổ chức, kinh tế tuần hoàn, huyện Đức Trọng
Summary
The article uses quantitative analysis methods to evaluate the factors affecting the Behavior of organizations and individuals toward a circular economy in the agricultural sector in Duc Trong District, Lam Dong Province. The research results show that the factors include Perceived Attitude; Perceived Subjective Norms; Perceived Behavioral Control; Perceived Intention; Perceived Pressure; Perceived Barriers; Perceived Support to the Behavior of organizations and individuals toward circular economy in the agricultural sector in Duc Trong District, Lam Dong Province.
Keywords: organizational behavior, circular economy, Duc Trong District
GIỚI THIỆU
Kinh tế tuần hòa trong lĩnh vực nông nghiệp (nông nghiệp tuần hoàn) đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử loài người (Barros và cộng sự, 2020). Bởi tính ưu việt của nó nên ngày càng có nhiều quốc gia trên thế giới coi trọng nông nghiệp tuần hoàn và gắn vào mục tiêu để phát triển bền vững, đặc biệt là các mục tiêu liên quan đến xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường (Schroeder và cộng sự, 2018). Nhiều quốc gia, khu vực và vùng lãnh thổ trên thê giới, như : Liên minh châu Âu, Bắc Mỹ, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…, đã gắn nông nghiệp tuần hoàn vào chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững, cho nên nông nghiệp tuần hoàn được coi là tương lai của nông nghiệp toàn cầu (Nguyễn Xuân Hồng, 2020).
Trong những năm qua, huyện Đức Trọng luôn có chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm tăng tính đa dạng của sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng cho nhu cầu của thị trường tiêu dùng trong và ngoài nước theo hướng chất lượng cao. Tuy vậy, sự phát triển của huyện Đức Trọng trong lĩnh vực nông nghiệp chưa hoàn toàn theo hướng bền vững do còn hạn chế những yếu tố trong vận hành kinh tế tuần hoàn. Điều đó thể hiện qua việc vẫn tồn tại biểu hiện lãng phí tài nguyên, mức độ xả thải còn khá nhiều, tình trạng gây ô nhiễm môi trường vẫn hiện hữu. Chính vì vậy, việc tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi phát triển kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, từ đó có những giải pháp hiệu quả là cần thiết.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Nông nghiệp tuần hoàn (Circular agriculture - CA) là nền sản xuất nông nghiệp theo một chu trình khép kín mà ở đó chất thải hay phế phụ phẩm của quá trình sản xuất này là đầu vào của quá trình sản xuất khác, hay nói đúng hơn, thì nông nghiệp tuần hoàn là quy trình sản xuất hạn chế tới mức tối đa phát thải chất thải ra môi trường nhờ việc tận dụng những phế phụ phẩm làm đầu vào cho sản xuất. Việc ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp giúp tạo ra sản phẩm an toàn, có chất lượng cao, giảm thiểu lãng phí thất thoát một cách tối đa và đặc biệt là giảm thiểu tối đa chất thải hoặc không có chất thải (Nguyễn Xuân Hồng, 2020). Như vậy, có thể định nghĩa, nông nghiệp tuần hoàn là mô hình sản xuất nông nghiệp dựa trên áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn. Nông nghiệp tuần hoàn tập trung vào sản xuất hàng hóa, tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng, hiệu quả cao trên cơ sở tận dụng và tái sử dụng tối đa các phế phụ phẩm và giảm tới mức thấp nhất lượng chất thải ra môi trường hoặc không có chất thải.
Nông nghiệp tuần hoàn được gọi tên theo nhiều cách khác nhau. Barros và cộng sự (2020) đã thống kê một số cụm từ được sử dụng để chỉ nông nghiệp tuần hoàn trên thế giới như sau: “Kinh tế sinh học tuần hoàn”, “Kinh tế sinh thái nông thôn”, “Cộng sinh công nghiệp”, “Sinh thái nông nghiệp”. Các quốc gia trên thế giới, dù sử dụng cách gọi tên nào, đều hướng tới một chu trình sản xuất nông nghiệp khép kín, ít tốn kém tài nguyên và giảm phát thải. Và mỗi quốc gia sẽ có các chiến lược, cơ chế chính sách riêng để phát triển nông nghiệp tuần hoàn.
Thái độ và trường hợp tác động đến ý định: Ajzen (1991) định nghĩa, thái độ là “mức độ mà một người có đánh giá hoặc đánh giá thuận lợi hay không thuận lợi đối với hành vi được đề cập”. Thái độ tích cực hoặc tiêu cực của một cá nhân đối với một hành vi nhất định sẽ củng cố hoặc làm suy yếu ý định thực hiện hành vi nhất định đó của người đó. Chúng ta có thể giải thích thái độ tác động đến ý định là mức độ chuyển đổi từ nền kinh tế tuyến tính sang nền kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp được những người ra quyết định đánh giá cao, dù có những tích cực và tiêu cực đan xen với nhau.
Chuẩn mực chủ quan và trường hợp tác động đến ý định: Theo Ajzen (1991), các chuẩn mực chủ quan là “áp lực xã hội được nhận thức để thực hiện hoặc không thực hiện hành vi”. Fishbein và Ajzen (2011) giải thích các chuẩn mực là các chuẩn mực mang tính mệnh lệnh (nhận thức về những gì người khác coi là hành vi đúng đắn) và các chuẩn mực mô tả (nhận thức về những gì người khác thực sự đang làm). Nhiều nghiên cứu trước đây ủng hộ mối quan hệ giữa chuẩn mực chủ quan và ý định hành vi (Chen và Tung, 2010; Khan và cộng sự, 2019; Papagiannakis và Lioukas, 2012; Sidique và cộng sự, 2010).
Nhận thức kiểm soát hành vi và trường hợp tác động đến ý định và hành vi
Ajzen (1991) định nghĩa, nhận thức kiểm soát hành vi là “sự dễ dàng hay khó khăn nhận thức được khi thực hiện hành vi. Theo Fishbein và Ajzen (2011), nhận thức kiểm soát hành vi là yếu tố quyết định cả ý định hành vi và hành vi thực tế. Chúng ta giải thích “Nhận thức kiểm soát hành vi” là “sức mạnh (và kiến thức) nhận thức của người ra quyết định thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế tuyến tính sang nền kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp”.
Ý định: Ajzen (1991) định nghĩa, ý định hành vi của một cá nhân thường bị ảnh hưởng bởi những kỳ vọng của một nhóm hoặc xã hội mà người đó là thành viên. Ý định hành vi của mỗi cá nhân phụ thuộc vào khả năng hoặc sức mạnh nhận thức của anh ấy/cô ấy để thực hiện hành vi nhất định đó trong câu hỏi. Các nghiên cứu trước đây ủng hộ mối quan hệ giữa nhận thức kiểm soát hành vi và ý định hành vi (Boldero, 1995; Tonglet và cộng sự, 2004).
Áp lực chuyển sang kinh tế tuần hoàn. Từ nền tảng của Whetten và cộng sự (2009), Owais Khana và cộng sự (2020) cho rằng, áp lực là “sự thúc đẩy được nhận thức đối với các tổ chức/cá nhân nhằm thực hiện các phương pháp xử lý, tái chế rác thải tốt nhất từ các cơ quan quản lý, đối thủ cạnh tranh và khách hàng”. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, những áp lực trực tiếp cải thiện hiệu quả hoạt động môi trường của tổ chức (Daddi và cộng sự, 2016; Phan và Baird, 2015; Singh và cộng sự, 2018).
Theo Jain và cộng sự (2020), áp lực ảnh hưởng đến ý định xử lý và tái chế rác thải của các tổ chức/cá nhân. Nhóm tác giả đã giả định rằng, những người ra quyết định nhận thấy áp lực mạnh mẽ hơn đối với tổ chức/cá nhân của họ, thì có nhiều khả năng thực hiện các biện pháp xử lý và tái chế rác thải tốt nhất. Nghĩa là, những tổ chức đó có nhiều khả năng đóng góp hơn vào nền kinh tế tuần hoàn. Nhóm tác giả phân biệt chuẩn mực chủ quan và áp lực chủ yếu ở khía cạnh vận hành mang tính xây dựng. Giả sử các tổ chức/cá nhân lân cận đã triển khai một công nghệ cụ thể, có thể quyết định không triển khai công nghệ đó, vì gánh nặng tài chính. Tuy nhiên, nếu có bất kỳ áp lực pháp lý nào, sớm hay muộn, thì tổ chức/cá nhân cũng sẽ phải triển khai công nghệ đó.
Rào cản chuyển sang kinh tế tuần hoàn. Từ nền tảng của Whetten và cộng sự (2009), Owais Khana và cộng sự (2020) cho rằng, các rào cản là yếu tố cản trở tổ chức/cá nhân thực hiện các phương pháp xử lý và tái chế rác thải tốt nhất. Theo đó, nhóm tác giả giải thích các rào cản là “thiếu nguồn lực cần thiết và/hoặc cơ hội thích hợp”. Khi ấy, những tổ chức/cá nhân gặp phải rào cản đáng kể rất khó có thể thực hiện các phương pháp xử lý và tái chế rác thải tốt nhất.
Yếu tố hỗ trợ để chuyển sang kinh tế tuần hoàn: Theo Owais Khana và cộng sự (2020), những yếu tố hỗ trợ là những yếu tố có thể tạo điều kiện thuận lợi cho một tổ chức/cá nhân thực hiện các phương pháp xử lý và tái chế rác thải tốt nhất. Nhóm tác giả giải thích các yếu tố hỗ trợ là “các hành động cần thiết hoặc giải pháp tiềm năng, nếu được giới thiệu hoặc triển khai, có thể thúc đẩy các tổ chức/cá nhân hướng tới việc xử lý và tái chế rác thải”. Đồng thời, giả định rằng, nếu các tổ chức/cá nhân được tạo điều kiện thuận lợi phù hợp, thì họ sẽ tích cực đóng góp vào nền kinh tế tuần hoàn.
Lý thuyết nền tảng – Lý thuyết hành động hợp lý (TRA). Fishbein và Ajzen (1975) đề xuất Lý thuyết hành động hợp lý (TRA) với giả định rằng hành vi của con người có thể được kiểm soát bởi ý chí con người. Tuy vậy, TRA bị chỉ trích rằng, không thể giải thích đầy đủ hành vi của con người nếu không xem xét các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến ý định của con người. TRA, Ajzen (1985) đã khắc phục nhược điểm này và đề xuất Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) với việc thêm biến khác vào mô hình TRA, đó là nhận thức kiểm soát hành vi (Ajzen, 1991). TPB cho rằng, thái độ đối với ý định hành vi, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi cùng nhau định hình ý định hành vi cũng như hành vi thực tế. Gần đây, TPB đã nhận được khoảng 90.000 trích dẫn. Tuy bị một số lời chỉ trích và một số mô hình hành vi cạnh tranh, nhưng mô hình TPB vẫn được coi là mô hình hiệu quả để thiết kế các biện pháp can thiệp hành vi (Yuriev và cộng sự, 2020). Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu sử dụng mô hình TPB trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có khoa học môi trường và quản lý bền vững (Daddi và cộng sự, 2018; Si và cộng sự, 2019).
Theo TPB (Ajzen, 1985), ý định hành vi đối với hành vi thực tế bị ảnh hưởng chung bởi thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Các nghiên cứu trước đây ủng hộ mối quan hệ giữa thái độ và ý định hành vi (Khan và cộng sự, 2019a; Tonglet và cộng sự, 2004). Trong phạm vi bài viết này, thái độ là “mức độ mà việc xử lý, tái chế rác thải được những người ra quyết định và những người có liên quan đánh giá cao, dù là tích cực hay tiêu cực”. Khan và cộng sự. (2020) cho thấy, những người ra quyết định có ý thức về môi trường đã thực hiện thành công nền kinh tế tuần hoàn đối với rác thải trong tổ chức của họ.
Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa các mô hình nghiên cứu trước đây và mô hình nghiên cứu của Owais Khan và cộng sự (2020), cùng với việc khảo sát thực tế, tác giả đề xuất mô hình ứng dụng kinh tế tuần hoàn tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng như Hình.
Hình: Mô hình nghiên cứu
![]() |
Nguồn: Tác giả đề xuất
Các giả thuyết được đưa ra như sau
H1: Thái độ của người ra quyết định ảnh hưởng tích cực đến Ý định tổ chức/cá nhân hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.
H2: Các chuẩn mực chủ quan được người ra quyết định nhận thức ảnh hưởng tích cực đến Ý định của tổ chức/cá nhân hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.
H3: Nhận thức kiểm soát hành vi của người ra quyết định ảnh hưởng tích cực đến Ý định của tổ chức/cá nhân hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.
H4: Ý định của tổ chức/cá nhân ảnh hưởng tích cực đến Hành vi tổ chức/cá nhân hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.
H5: Nhận thức kiểm soát hành vi của người ra quyết định ảnh hưởng tích cực đến Hành vi của các tổ chức/cá nhân hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.
H6: Áp lực lên tổ chức/cá nhân ảnh hưởng tích cực đến Hành vi của tổ chức/cá nhân hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.
H7: Rào cản ảnh hưởng tiêu cực đến Hành vi của tổ chức/cá nhân hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.
H8: Hỗ trợ tác động tích cực đến Hành vi của tổ chức/cá nhân hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp định tính: Phỏng vấn 10 chuyên gia và thảo luận nhóm với 20 đáp viên.
- Phương pháp định lượng:
+ Sử dụng bảng câu hỏi định lượng: Phiếu khảo sát phát ra là 400 phiếu, số phiếu hợp lệ thu về 350 phiếu.
+ Đối tượng khảo sát: là các nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp và các nông hộ. + Thời gian khảo sát: được thực hiện từ tháng 5 đến tháng 6/2024.
+ Phương pháp xử lý dữ liệu: dựa trên mô hình cấu trúc tuyến tính SEM (Structural Equation Modeling) bằng ước lượng theo phương pháp PLS-SEM (Partial Least Squares Structural Equation Modeling) thông qua phần mềm SmartPLS (Bài viết sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Độ tin cậy và giá trị của thang đo
Bảng 1: Chỉ số độ tin cậy, giá trị phương sai trích trung bình
Cronbach's Alpha | rho_A | Composite Reliability (CR) | Average Variance Extracted (AVE) | |
AL | 0.855 | 0.859 | 0.892 | 0.579 |
CCQ | 0.846 | 0.850 | 0.891 | 0.620 |
HT | 0.930 | 0.934 | 0.944 | 0.705 |
HV | 0.927 | 0.927 | 0.942 | 0.732 |
KSHV | 0.867 | 0.869 | 0.904 | 0.654 |
RC | 0.936 | 0.937 | 0.947 | 0.690 |
TĐ | 0.908 | 0.912 | 0.930 | 0.688 |
YĐ | 0.858 | 0.861 | 0.904 | 0.701 |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu Smart PLS
Kết quả (Bảng 1) cho thấy, chỉ số Cronbach’s Alpha của các biến có giá trị thấp nhất là 0.846, giá trị biến cao nhất là 0.936, như vậy đều vượt qua ngưỡng cao hơn 0.7 chấp nhận được. Hệ số Rho_A và chỉ số hệ tin cậy tổng hợp CR thấp nhất là 0.850 và 0.891, như vậy dữ liệu đủ cơ sở sử dụng trong phân tích, các biến có khả năng đo lường ổn định hoàn chỉnh và đáng tin cậy.
Bên cạnh đó, AVE có giá trị 0.579-0.732 cho thấy, đạt tính hội tụ tốt. Các biến đo đạt độ tin cậy cao, đồng nhất nội tại và tăng tính chắc chắc trong thang đo mô hình nghiên cứu. Các biến quan sát có giá trị hội tụ đều cao, cho thấy tương quan chặt chẽ giữa các biến trong thang đo, đồng thời cung cấp thông tin mức độ đáng tin cậy và phù hợp để đo lường các khái niệm nên được giữ lại trong mô hình.
Fornell-Larcker (1981) đề xuất phương pháp đánh giá tính phân biệt của thang đo bằng cách tính căn bậc hai của AVE cho mỗi biến tiềm ẩn và so sánh nó với các tương quan giữa biến tiềm ẩn đó và các biến tiềm ẩn khác. Kết quả Bảng 2 cho thấy, giá trị Fornell-Larcker trong ngưỡng 0.527-0.943, nghĩa là các biến trong mô hình đều đáng tin cậy và không gây hiện tượng đa cộng tuyến.
Bảng 2: Hệ số Fornell-Larcker
Biến quan sát | Áp lực (AL) | Chuẩn chủ quan (CCQ) | Hỗ trợ (HT) | Hành vi (HV) | Kiểm soát hành vi (KSHV) | Rào cản (RC) | Thái độ (TĐ) | Ý định (YĐ) |
AL | 0.761 | |||||||
CCQ | 0.852 | 0.787 | ||||||
HT | 0.738 | 0.703 | 0.840 | |||||
HV | 0.662 | 0.556 | 0.646 | 0.856 | ||||
KSHV | 0.604 | 0.543 | 0.554 | 0.579 | 0.809 | |||
RC | 0.751 | 0.702 | 0.943 | 0.654 | 0.565 | 0.831 | ||
TĐ | 0.748 | 0.688 | 0.733 | 0.718 | 0.612 | 0.757 | 0.830 | |
YĐ | 0.663 | 0.581 | 0.664 | 0.624 | 0.527 | 0.688 | 0.663 | 0.837 |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu Smart PLS
Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) qua ma trận xoay
Các giá trị hệ số tải ngoài của biến từ 0.715 đến 0.808 đối với biến AL và từ 0.749 đến 0.840; đối với biến Kiểm soát hành vi (KSHV); Chuẩn chủ quan (CCQ) từ 0.741-0.814; Hỗ trợ (HT) từ 0.789-0.868. Những giá trị này cho thấy rằng, các biến quan sát còn lại không chỉ có mối liên kết chặt chẽ mà còn đóng góp tích cực và mạnh mẽ vào các biến tiềm ẩn mà chúng đo lường.
Bảng 3: Hệ số tải ngoài
Biến quan sát | Áp lực (AL) | Chuẩn chủ quan (CCQ) | Hỗ trợ (HT) | Hành vi (HV) | Kiểm soát hành vi (KSHV) | Rào cản (RC) | Thái độ (TĐ) | Ý định (YĐ) |
AL1 | 0.808 | |||||||
AL2 | 0.781 | |||||||
AL3 | 0.783 | |||||||
AL4 | 0.750 | |||||||
AL5 | 0.725 | |||||||
AL6 | 0.715 | |||||||
CCQ1 | 0.789 | |||||||
CCQ2 |
| 0.806 |
|
|
|
|
|
|
CCQ3 |
| 0.741 |
|
|
|
|
|
|
CCQ4 |
| 0.814 |
|
|
|
|
|
|
CCQ5 |
| 0.783 |
|
|
|
|
|
|
HT1 |
|
| 0.851 |
|
|
|
|
|
HT2 |
|
| 0.868 |
|
|
|
|
|
HT3 |
|
| 0.841 |
|
|
|
|
|
HT4 |
|
| 0.840 |
|
|
|
|
|
HT5 |
|
| 0.834 |
|
|
|
|
|
HT6 |
|
| 0.789 |
|
|
|
|
|
HT7 |
|
| 0.854 |
|
|
|
|
|
HV1 |
|
|
| 0.873 |
|
|
|
|
HV2 |
|
|
| 0.864 |
|
|
|
|
HV3 |
|
|
| 0.837 |
|
|
|
|
HV4 |
|
|
| 0.842 |
|
|
|
|
HV5 |
|
|
| 0.846 |
|
|
|
|
HV6 |
|
|
| 0.869 |
|
|
|
|
KSHV1 |
|
|
|
| 0.862 |
|
|
|
KSHV2 |
|
|
| 0.768 | ||||
KSHV3 |
|
|
| 0.820 | ||||
KSHV4 |
|
|
| 0.840 | ||||
KSHV5 |
|
|
| 0.749 | ||||
RC1 |
|
|
|
|
| 0.851 |
|
|
RC2 |
|
|
|
|
| 0.811 |
|
|
RC3 |
|
|
|
|
| 0.800 |
|
|
RC4 |
|
|
|
|
| 0.853 |
|
|
RC5 |
|
|
|
|
| 0.855 |
|
|
RC6 |
|
|
|
|
| 0.848 |
|
|
RC7 |
|
|
|
|
| 0.802 |
|
|
RC8 |
|
|
|
|
| 0.824 |
|
|
TĐ1 |
|
|
|
|
|
| 0.866 |
|
TĐ2 |
|
|
|
|
|
| 0.823 |
|
TĐ3 |
|
|
|
|
|
| 0.845 |
|
TĐ4 |
|
|
|
|
|
| 0.726 |
|
TĐ5 |
|
|
|
|
|
| 0.817 |
|
TĐ6 |
|
|
|
|
|
| 0.892 |
|
YĐ1 |
|
|
|
|
|
|
| 0.864 |
YĐ2 |
|
|
|
|
|
|
| 0.833 |
YĐ3 |
|
|
|
|
|
|
| 0.807 |
YĐ4 |
|
|
|
|
|
|
| 0.844 |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu Smart PLS
Đánh giá mô hình cấu trúc tuyến tính SEM
Khẳng định mô hình cấu trúc tuyến tính SEM
Kiểm định mối quan hệ trong mô hình cấu trúc thông qua phương pháp Bootstrapping N = 5,000 theo mẫu khuyến nghị Hair và cộng sự (2022). Hình 2 trình bày kết quả ước lượng PLS-SEM của mô hình nghiên cứu rút gọn điều tra các yếu Hành vi thực hiện (HV); Ý định (YD), Nhận thức kiểm soát hành vi (KSHV); Áp lực (AL); Rào cản (RC); Yếu tố hỗ trợ (HT); Thái độ (TD); Chuẩn mực chủ quan (CCQ).
Hình 2: Kết quả mô hình cấu trúc tuyến tính PLS-SEM
![]() |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu Smart PLS
Đánh giá mức độ giải thích bằng hệ số xác định R2
Bảng 4: Hệ số xác định R2 và R2 hiệu chỉnh
R2 | R2 hiệu chỉnh | |
HV | 0.549 | 0.543 |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu Smart PLS
Với hệ số R2 hiệu chỉnh = 0.549 54.9%; các biến độc lập giải thích được 54,9% sự biến thiên của biến phụ thuộc, cho thấy rằng mô hình phù hợp với dữ liệu nghiên cứu.
Đánh giá mô hình cấu trúc đa cộng tuyến
Các giá trị VIF đều có giá trị thấp nhất là 1.566; cao nhất là 4.049 nhưng chưa đạt ở mức giá trị 5, điều này cho thấy rằng, mô hình giữa các biến độc lập có tính cộng tuyến tương đối vừa phải và không cần điều chỉnh. Điều đó cho thấy rằng, không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến.
Ước lượng mối quan hệ giữa các biến trong mô hình
Các giá trị ước lượng cho các mối quan hệ giữa các biến trong mô hình sử dụng giá trị hệ số đường dẫn (Path Coefficient). Các hệ số này cho biết mức độ ảnh hưởng của biến độc lập lên biến phụ thuộc.
Bảng 5: Giá trị hệ số đường dẫn mối quan hệ các biến
Tương quan các biến | Giá trị ước lượng (O) | Giá trị trung bình của mẫu | Độ lệch chuẩn (STDEV) | Giá trị T (|O/STDEV|) | Giá trị P | Giả thuyết |
AL -> HV | 0.231 | 0.232 | 0.055 | 4.215 | 0.000 | Chấp nhận |
CCQ -> YĐ | 0.201 | 0.203 | 0.050 | 4.051 | 0.000 | Chấp nhận |
HT -> HV | 0.133 | 0.127 | 0.107 | 1.242 | 0.214 | Bác bỏ |
KSHV -> HV | 0.199 | 0.200 | 0.042 | 4.732 | 0.000 | Chấp nhận |
KSHV -> YĐ | 0.154 | 0.153 | 0.054 | 2.818 | 0.005 | Chấp nhận |
RC -> HV | 0.097 | 0.101 | 0.110 | 0.884 | 0.377 | Bác bỏ |
TĐ -> YĐ | 0.431 | 0.431 | 0.058 | 7.479 | 0.000 | Chấp nhận |
YĐ -> HV | 0.211 | 0.211 | 0.050 | 4.230 | 0.000 | Chấp nhận |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu Smart PLS
Bảng 5, kết quả phân tích tương quan giữa các biến cho thấy sự quan trọng của mối liên hệ giữa các yếu tố trong nghiên cứu. Yếu tố Thái độ (TD) có t = 7.479, p = 0.000 được xác định là yếu tố chủ chốt có mối liên hệ mạnh mẽ và tích cực đến yếu tố Ý định (YD). Yếu tố Áp lực (AL) t = 4.215, p = 0.000 và Kiểm soát hành vi (KSHV) có giá trị t = 4.732, p =0.005 đóng vai trò quan trọng, tác động mạnh lên yếu tố Hành vi (HV).
Các yếu tố Rào cản (RC) và Hỗ trợ (HT) không thể chứng minh mối liên hệ đủ mạnh để chấp nhận có tác động là do:
+ Đối với yếu tố Rào cản (RC): Kết quả xử lý dữ liệu thống kê cho thấy Yếu tố Rào cản (RC) có chỉ số tin cậy Cronbach's Alpha = 0.936 > 0.75 có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên khi nhân rộng mô hình (bootstrapping 5,000), thì trở nên không có ý nghĩa đáng kể. Điều này chứng minh khi nhân rộng mô hình càng lớn, càng rộng thì sẽ không còn rào cản nào nữa, vì nó đã trở thành tư tưởng lớn, phong trào lớn của toàn nông dân trên diện rộng, như vậy mức độ ảnh hưởng thấp dẫn đến không cần đề cập nhiều nữa.
+ Đối với yếu tố Hỗ trợ (HT), Kết quả xử lý dữ liệu thống kê cho thấy Yếu tố Hỗ trợ (HT) có chỉ số tin cậy Cronbach's Alpha = 0.930 > 0.75 có ý nghĩa thống kê, kiểm định bootstrapping 5000 thì trở nên không có ý nghĩa đáng kể. Tương tự yếu tố Rào cản khi nhân rộng mô hình càng rộng, yếu tố Hỗ trợ cũng sẽ trở nên không cần thiết nữa vì nó là sự đồng lòng của toàn nông dân khi thực hiện nông nghiệp tuần hoàn.
Hiệu ứng gián tiếp và tổng hiệu ứng của biến độc lập lên biến phụ thuộc qua biến trung gian
Bảng 6: Kiểm định giả thuyết biến trung gian
Tương quan các biến | Giá trị ước lượng (O) | Giá trị trung bình của mẫu | Độ lệch chuẩn (STDEV) | Giá trị T (|O/STDEV|) | Giá trị P | Giả thuyết |
CCQ -> YĐ -> HV | 0.042 | 0.043 | 0.014 | 2.971 | 0.003 | Chấp nhận |
KSHV -> YĐ -> HV | 0.032 | 0.032 | 0.014 | 2.356 | 0.018 | Chấp nhận |
TĐ -> YĐ -> HV | 0.091 | 0.091 | 0.027 | 3.410 | 0.001 | Chấp nhận |
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu Smart PLS
Kết quả kiểm định giả thuyết (Bảng 6) cho thấy, Thái độ (TD) có tác động đến Ý định (YD) với mức độ tương quan cao (giá trị t = 3.410, p
Tổng hợp kết quả kiểm định giả thuyết
Kết quả kiểm định các giả thuyết được tổng hợp từ dữ liệu cho thấy một số mối quan hệ có ảnh hưởng đáng kể trong mô hình nghiên cứu:
H1: Nhận thức Thái độ (TĐ) có ảnh hưởng cùng chiều đến Ý định (YĐ), giá trị t= 7.479, p = 0.000, Giả thuyết được chấp nhận.
H2: Nhận thức Chuẩn mực chủ quan (CCQ) ảnh hưởng cùng chiều đến Ý định (YĐ) giá trị t = 4.051, p = 0.000, Giả thuyết được chấp nhận.
H3: Nhận thức Kiểm soát hành vi (KSHV) có ảnh hưởng cùng chiều đến Ý định (YD) giá trị t = 2.818, p = 0.005, Giả thuyết được chấp nhận.
H4: Nhận thức Ý định (YĐ) có ảnh hưởng tích cực đến Hành vi (HV) giá trị t= 4.230, p = 0.000, Giả thuyết được chấp nhận.
H5: Nhận thức Kiểm soát hành vi (KSHV) có ảnh hưởng tích cực đến Hành vi (HV) giá trị t = 4.732, p = 0.000, Giả thuyết được chấp nhận.
H6: Nhận thức Áp lực (AL) có ảnh hưởng tích cực đến Hành vi (HV) giá trị t= 4.215, p = 0.000, Giả thuyết được chấp nhận.
H7: Nhận thức Rào cản (RC) không ảnh hưởng đến Hành vi (HV) giá trị t= 0.884, p = 0.377, không đạt mức ý nghĩa.
H8: Nhận thức Hỗ trợ (HT) không ảnh hưởng đến Hành vi (HV) giá trị t = 1.214, p = 0.214, không đạt mức ý nghĩa.
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý
Kết quả nghiên cứu cho thây, các nhân tố, gồm: Nhận thức Thái độ; Nhận thức Chuẩn mực chủ quan; Nhận thức Kiểm soát hành vi; Nhận thức Ý định; Nhận thức Áp lực; Nhận thức Rào cản; Nhận thức Hỗ trợ đến Hành vi của tổ chức, cá nhân hướng tới kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Theo đó, tác giả đề xuất một số hàm ý nhằm thúc đẩy nhanh hành vi hướng tới kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp như sau:
- Để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, cần thiết lập các hợp tác chiến lược giữa chính phủ và các doanh nghiệp tư nhân. Chính phủ có thể cung cấp khung pháp lý và các chính sách khuyến khích, trong khi doanh nghiệp tư nhân đảm nhận vai trò triển khai công nghệ và quản lý dự án.
- Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp tuần hoàn thông qua việc cung cấp vốn đầu tư, đào tạo kỹ năng và hỗ trợ tiếp cận thị trường. Khuyến khích các ý tưởng sáng tạo trong việc xử lý và tái chế chất thải nông nghiệp.
- Xây dựng các chương trình hỗ trợ cộng đồng nông thôn áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, tập trung vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường và tạo cơ hội việc làm bền vững cho người dân.
- Thúc đẩy các dự án hợp tác quốc tế để chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ và học hỏi các mô hình thành công từ các quốc gia tiên tiến. Nghiên cứu ứng dụng thực tiễn để mang lại lợi ích trực tiếp cho ngành nông nghiệp giúp nâng cao năng lực và trình độ kỹ thuật của ngành nông nghiệp Việt Nam.
- Tăng cường hoạt động tiếp thị, xây dựng thương hiệu và nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh trên thị trường.
- Tiếp tục tạo điều kiện nhân rộng mô hình cho các địa phương trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Đồng thời, hỗ trợ kỹ thuật giúp nhân rộng mô hình dự án và tiêu thụ sản phẩm cho người dân trong vùng có nhu cầu./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ajzen, I. (1991), The theory of planned behavior, Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50, 179–-211, https://doi.org/10.1016/0749-5978(91)90020-T.
2. Chen, M.-.F., Tung, P.-.J. (2010), The moderating effect of perceived lack of facilities on consumers’ Recycling intentions, Environ, Behav, 42, 824–844. https://doi.org/10. 1177/0013916509352833.
3. Daddi, et al. (2016), Exploring the link between institutional pressures and environmental management systems effectiveness: an empirical study, J. Environ, Manage, 183, 647–656, https://doi.org/10.1016/j.jenvman.2016.09.025.
4. Daddi, et al. (2018), A systematic review of the use of organization and management theories in climate change studies, Bus, Strateg, Environ, 27, 456–474, https://doi.org/10.1002/bse.2015.
5. Fishbein, et al. (1975), Belief, Attitude, Intention, and Behavior: An Introduction to Theory and Research, Addison-Wesley, Reading, MA.
6. Fishbein, et al. (2011), Predicting and Changing Behavior: The Reasoned Action Approach, Taylor & Francis.
7. Jain, et al. (2020), Construction and demolition waste recycling: investigating the role of theory of planned behavior, institutional pressures and environmental consciousness, J. Clean, Prod, https://doi.org/10.1016/j.jclepro. 2020.121405.
8. Khan, et al. (2019a), Understanding consumers’ behavior intentions towards dealing with the plastic waste: perspective of a developing country, Resour, Conserv, Recycl, 142, 49–58, https://doi.org/10.1016/j.resconrec.2018.11.020.
9. Khan, et al. (2019b), Managing plastic waste disposal by assessing consumers’ recycling behavior: the case of a densely populated developing country, Environ, Sci, Pollut, Res, https://doi.org/10.1007/s11356-019-06411-4.
10. Khan, et al. (2020), Microfoundations of dynamic capabilities: insights from circular economy business cases, Bus, Strateg, Environ, 29, 1479–1493, https:// doi.org/10.1002/bse.2447.
11. Owais Khan, et al. (2020), Assessing the determinants of intentions and behaviors of organizations towards a circular economy for plastics, Resources, Conservation & Recycling.
12. Papagiannakis, et al. (2012), Values, attitudes and perceptions of managers as predictors of corporate environmental responsiveness, J. Environ, Manage, 100, 41–51, https://doi.org/10.1016/j.jenvman.2012.01.023.
13. Phan, et al. (2015), The comprehensiveness of environmental management systems: the influence of institutional pressures and the impact on environmental performance, J. Environ, Manage, https://doi.org/10.1016/j.jenvman.2015.06.006.
14. Schroeder et al. (2018), The Relevance of Circular Economy Practices to the Sustainable Development Goals, Journal of Industrial Ecology, https://doi.org/10.1111/jiec.12732.
15. Si, et al. (2019), Application of the theory of planned behavior in environmental science: a comprehensive bibliometric analysis, Int, J. Environ, Res, Public Health 16, https://doi.org/10.3390/ ijerph16152788.
16. Sidique, et al. (2010), The effects of behavior and attitudes on drop-off recycling activities, Resour, Conserv, Recycl, 54, 163-170, https://doi.org/10.1016/ j.resconrec.2009.07.012.
17. Singh, et al. (2018), Developing an extended theory of planned behavior model to explore circular economy readiness in manufacturing MSMEs, India, Resour, Conserv, Recycl, 135, 313–322, https://doi.org/10.1016/j.resconrec. 2017.07.015.
18. Whetten, et al. (2009), The practice of theory borrowing in organizational studies: current issues and future directions, J. Manage, https://doi.org/10. 1177/0149206308330556.
19. Yuriev, et al. (2020), Pro-environmental behaviors through the lens of the theory of planned behavior: a scoping review, Resour, Conserv, Recycl, 155, 104660, https://doi.org/10.1016/j.resconrec.2019. 104660.
Ngày nhận bài: 12/02/2025; Ngày phản biện: 28/02/2025; Ngày duyệt đăng: 12/3/2025 |